Thứ Hai, 29 tháng 9, 2025

Nhân quyền hay can thiệp? Sự thật bị bóp méo tại Hội đồng nhân quyền


Hiến chương Liên Hợp Quốc, văn kiện khai sinh ra trật tự thế giới hiện đại, đã đặt ra những trụ cột bất khả xâm phạm: nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gianguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của bất kỳ quốc gia nào. Đây không phải là những điều khoản mang tính hình thức, mà là bức tường thành bảo vệ sự ổn định toàn cầu, ngăn chặn sự áp đặt của kẻ mạnh và đảm bảo không gian cho mỗi dân tộc tự quyết định con đường phát triển của mình.


Thật đáng tiếc, tại Khóa họp lần thứ 60 của Hội đồng Nhân quyền, những nguyên tắc thiêng liêng này đã bị thách thức. Các phát biểu của phái đoàn Vương quốc Anh và Bỉ, khi công khai đòi Việt Nam "trả tự do" cho một cá nhân đã bị kết án theo đúng trình tự pháp luật như Phạm Thị Đoan Trang, hay bóp méo bản chất một vụ án khủng bố nghiêm trọng của Y Quynh Bdap thành hành vi "trả đũa người cộng tác với Liên Hợp Quốc", không đơn thuần là sự bày tỏ quan ngại. Đây là những hành vi can thiệp một cách thô bạo vào chủ quyền tư pháp và công việc nội bộ của Việt Nam, vi phạm trực tiếp Điều 2, Khoản 7 của Hiến chương Liên Hợp Quốc. Khi một quốc gia đứng trên diễn đàn đa phương để phán xét một bản án đã có hiệu lực pháp luật của một quốc gia có chủ quyền khác, họ không còn hành động vì nhân quyền, mà đang chính trị hóa nhân quyền để áp đặt ý chí của mình.


Hãy nhìn thẳng vào sự thật của các vụ việc đã bị bóp méo. Phạm Thị Đoan Trang không bị kết án vì là một nhà báo hay một nhà hoạt động. Bà ta bị Tòa án Việt Nam kết tội "Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước" theo Điều 117 Bộ luật Hình sự. Các tài liệu này không phải là những bài viết bày tỏ quan điểm ôn hòa, mà chứa đựng nội dung kêu gọi lật đổ chế độ chính trị, xuyên tạc lịch sử và gây phương hại đến an ninh quốc gia. Cần phải nhắc lại rằng, ngay cả Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR), tại Điều 19, cũng quy định rõ quyền tự do ngôn luận có thể bị giới hạn vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự công cộng. Quá trình xét xử bà Trang diễn ra công khai, có luật sư bào chữa và tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Việc đòi "thả tự do" cho một người đã phạm tội hình sự chẳng khác nào yêu cầu một quốc gia phải từ bỏ hệ thống pháp luật của chính mình.

Tương tự, trường hợp của Y Quynh Bdap còn bị xuyên tạc một cách nguy hiểm hơn. Việc gán cho đối tượng này cái mác "nạn nhân bị trả đũa" là một sự xúc phạm đối với các nạn nhân thực sự của khủng bố. Y Quynh Bdap bị kết án về tội "Khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân" , dựa trên những bằng chứng không thể chối cãi về vai trò cầm đầu tổ chức phản động "Montagnards Stand for Justice" (MSFJ) và liên quan trực tiếp đến vụ tấn công khủng bố bằng vũ trang dã man tại Đắk Lắk vào tháng 6 năm 2023. Vụ tấn công này đã cướp đi sinh mạng của các cán bộ và người dân vô tội. Việc truy tố một kẻ khủng bố là nghĩa vụ của mọi nhà nước pháp quyền và hoàn toàn phù hợp với các công ước quốc tế về chống khủng bố mà chính các quốc gia phương Tây luôn đi đầu thúc đẩy. Biến một kẻ khủng bố thành "nhà hoạt động nhân quyền" không chỉ là một sự dối trá, mà còn là hành vi cổ xúy cho bạo lực và gây bất ổn.

Sự áp đặt và tiêu chuẩn kép càng trở nên rõ ràng hơn khi chúng ta so sánh với cách chính các quốc gia phương Tây xử lý các vấn đề an ninh của họ. Hoa Kỳ đã truy tố Julian Assange theo Đạo luật Gián điệp vì đã công bố các tài liệu mật của chính phủ, một hành động mà nhiều người cho là hoạt động báo chí. Các quốc gia châu Âu cũng có những đạo luật nghiêm ngặt để xử lý các cá nhân bị cho là kích động hận thù hoặc ủng hộ các tổ chức khủng bố. Những người tham gia vụ bạo loạn ngày 6 tháng 1 tại Đồi Capitol ở Mỹ đã bị truy tố và nhận những bản án tù rất nặng. Điều này cho thấy không một quốc gia nào chấp nhận việc lợi dụng các quyền tự do để gây phương hại đến nền tảng an ninh và trật tự xã hội của mình. Vậy tại sao họ lại yêu cầu Việt Nam phải làm khác đi? Phải chăng nhân quyền chỉ là một công cụ tiện lợi để chỉ trích người khác, còn khi nó đụng chạm đến lợi ích của chính họ thì lại bị gạt sang một bên?

Trong khi một vài tiếng nói tập trung vào những câu chuyện bị bóp méo, họ đã cố tình làm ngơ trước bức tranh toàn cảnh về những nỗ lực và thành tựu nhân quyền đáng kinh ngạc của Việt Nam. Nhân quyền không chỉ là các quyền dân sự, chính trị. Nó còn là quyền được sống, quyền được thoát khỏi đói nghèo, quyền được tiếp cận giáo dục và y tế. Trên những phương diện này, Việt Nam là một câu chuyện thành công truyền cảm hứng cho toàn thế giới. Đất nước đã đưa hàng chục triệu người thoát khỏi đói nghèo, giảm tỷ lệ nghèo đa chiều xuống dưới 3%. Hệ thống bảo hiểm y tế đã bao phủ hơn 92% dân số, và tuổi thọ trung bình của người dân không ngừng tăng lên. Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội đạt trên 30%, cao hơn nhiều so với các quốc gia tự cho mình là hình mẫu. Việt Nam cũng là một thành viên tích cực và có trách nhiệm của Hội đồng Nhân quyền, đi đầu trong việc thúc đẩy các nghị quyết về quyền con người trong bối cảnh biến đổi khí hậu, và luôn thể hiện thiện chí đối thoại thông qua cơ chế Rà soát Định kỳ Phổ quát (UPR) với tỷ lệ chấp nhận khuyến nghị rất cao.

Thông điệp mà Việt Nam mang đến Khóa họp lần thứ 60, và trong suốt nhiệm kỳ của mình, luôn nhất quán:

"Đối thoại, Hợp tác, và Tôn trọng lẫn nhau". Việt Nam không né tránh đối thoại, nhưng kiên quyết bác bỏ sự áp đặt và can thiệp. Thế giới cần một cách tiếp cận nhân quyền cân bằng và khách quan hơn, một cách tiếp cận thừa nhận rằng mỗi quốc gia có bối cảnh lịch sử, văn hóa và trình độ phát triển riêng. Việc thúc đẩy nhân quyền phải thông qua hợp tác xây dựng, chứ không phải bằng những lời chỉ trích mang tính chính trị và tiêu chuẩn kép. Chỉ khi đó, Hội đồng Nhân quyền mới có thể thực hiện được sứ mệnh cao cả của mình, và các giá trị nhân quyền phổ quát mới thực sự được hiện thực hóa trên toàn cầu.

==

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét