Từ nhiều năm nay, đám rận nội ngoại bu
vào “thống nhất”, “bảo vệ” sống chết với nhau rằng, Chính phủ Trần Trọng Kim đã
được Nhật trao trả độc lập, được thành lập hợp pháp, bị Chính phủ Hồ Chí Minh
cướp…Từ đó, chúng phủ nhận giá trị của Ngày Quốc khánh 2/9, phủ nhận ngày lễ Độc
lập, phủ nhận vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Thực hư về “Chính phủ
Trần Trọng Kim” này thế nào, mời bạn đọc phán xét.
Trần Trọng Kim (1883-1953)
Nếu đánh giá về ông Trần Trọng Kim hầu
hết người am hiểu lịch sử, người nghiên cứu tử tế sẽ cho rằng: “ông Trần Trọng
Kim là 1 trí thức giỏi, có lòng với đất nước, vậy thôi. Chấm hết . Một người
bình thường cũng không thể nghĩ chính phủ Trần Trọng Kim là 1 chính phủ. Đã
không thể là 1 chính phủ thì không có chủ thể, để ai đó nói là trao trả độc lập
được” hay “Ông Trần Trọng Kim là một học giả yêu
nước, một chính trị gia "bất đắc dĩ". Ông được Bảo Đại và quân phát
xít Nhận lựa chọn đứng ra thành lập chính phủ. Tất nhiên, chính phủ của ông có
làm được một vài điều có ích nhưng về toàn cục, chính phủ này vẫn là bù nhìn
của Nhật. Một chính phủ quốc gia mà lại không có quân đội, không có tài chính
độc lập. Hàng tháng quan chức lĩnh lương của Nhật. Nội các của ông Kim hầu như
chỉ có tiếng ở cấp trung ương còn hoàn toàn không có mối liên hệ nào với các
địa phương chứ chưa nói đến điều hành cả guồng máy chính trị cả nước. Dù rằng
các cụ trong Nội các đều là những nhân sĩ trí thức nhưng trong bối cảnh trên
đầu có cái ách Nhật Hoàng nên các cụ chưa làm được điều gì. Nói Việt Nam đã
được Nhật "trao trả độc lập" là vớ vẩn, thiếu hiểu biết”…
Lịch sử ít viết về “Chính phủ Trần Trọng
Kim” tồn tại 4 tháng cũng có cái lý của nó. Tiếp cận từ chính cuốn hồi ký của Lệ
Thần Trần Trọng Kim mang tên “Một cơn gió bụi” – tên ông dành gọi về cuộc đời
chính trị cũng như phản ánh bản chất số phận chính phủ của mình, và nhiều cuốn
hồi ký đương thời, ít nhất cũng cho ta thấy chân dung thực của “chính trị gia”,
“Thủ tướng Chính phủ” này
Nghiên cứu các học giả về lịch sử giai đoạn này đều có điểm chung thống
nhất: Trần Trọng Kim là một Chính trị gia bất đắc dĩ. Chính phủ Trần Trọng Kim
là một chính phủ bù nhìn
thân Nhật, không có thực quyền và không có được sự ủng hộ của dân chúng!
Trần Trọng Kim,
còn có bút hiệu Lệ Thần (1883 - 1953) tại
làng Kiều Lĩnh, xã Đan Phổ (nay là Xuân Phổ, trước thuộc tổng Đan Hải), huyện
Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Cụ thân sinh ra Trần Trọng Kim là Trần Bá Huân, có
tham gia phong trào Cần Vương. Em gái ông tên Trần Thị Liên là một cán bộ Xô Viết,
hoạt động năm 1930 (mất năm 1964). Ngoài ra, ông còn có người con gái hiện đang
ở Pháp (xem “Bàn thêm về Trần Trọng Kim”, Tạp chí Văn Hóa Nghệ An, 26.11. 2009). Riêng vợ ông là em gái
nhà nghiên cứu văn học Bùi Kỷ. Xuất thân trong một
gia đình Nho giáo, ông học chữ Hán từ nhỏ. Năm 1897, học chương trình Pháp ở
Trường Pháp-Việt Nam Định. Năm 1900, thi đỗ vào Trường thông ngôn, tốt nghiệp
năm 1903. Năm 1904, làm Thông sự ở Ninh Bình.
Ông là một học
giả tên tuổi, là tác giả của tất cả những công trình đã in thành sách, liệt kê
theo thứ tự thời gian như sau: Sơ học luân lý (Nhà in Trung Bắc
Tân Văn, Hà Nội, 1914),
Sư phạm khoa yếu lược (Trung Bắc Tân
Văn, 1916),
Việt Nam sử lược (2 quyển Thượng và Hạ,
Trung Bắc Tân Văn,
1919), Truyện
Thúy Kiều chú giải
(1925, soạn chung với Bùi Kỷ), Quốc văn giáo khoa thư (3 tập: lớp Đồng ấu, lớp
Dự bị, và lớp
Sơ đẳng),
Luân lý giáo khoa
thư, Sử ký giáo khoa thư (cả ba loại giáo
khoa thư này xuất bản năm 1926, và đều soạn chung với Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận,
do Nam Sơn Nguyễn Văn Thọ
vẽ minh họa), 47 điều giáo hóa của nhà Lê (Trung Bắc Tân Văn,
1928, dịch “Lê triều giáo hóa điều luật tứ thập thất điều” ra tiếng Pháp: Les
47 articles du Catéchisme moral de l’Annam d’autrefois), Nho giáo (Trung Bắc Tân
Văn, 1930,
ba quyển; sau in gộp lại thành hai quyển, 1932-1033), Việt thi (sao
lục và chú giải) Phật lục
(NXB Lê Thăng, Hà Nội, 1940), Phật giáo (Tân Việt xuất bản),
Vương Dương Minh (1940), Việt Nam văn phạm (Lê Thăng, Hà Nội,
1941, soạn chung với Phạm Duy Khiêm, Bùi
Kỷ), Tiểu học Việt Nam văn phạm (Tân
Việt xuất bản), Phật giáo thủa xưa và Phật giáo ngày nay (Tân Việt,
1953; “Lời mở đầu” của tác giả đề tháng 10.1952), Hạnh thục ca (Tân Việt
xuất bản), Đường thi (Tân Việt xuất bản), Lăng ca kinh (Tân Việt,
1964), Một cơn gió bụi (Hồi ký, viết từ năm 1949, xuất bản năm
1969 tại Sài Gòn do NXB Vĩnh Sơn). Đánh giá về vai trò, vị trí trong giới trí thức Việt Nam,
trong Việt Nam văn học sử yếu, GS Dương Quảng Hàm xếp Trần Trọng Kim vào chương “Các văn
gia hiện đại”. Đến Nhà văn hiện đại
(4 tập, Tân Dân, Hà Nội, 1942-1945), nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan
(1902-1987) xếp Trần Trọng Kim vào “Các nhà văn lớp đầu”. Đến Việt
Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế
Ngũ, tập III, phần Văn học hiện đại 1862-1945 (Quốc Học Tùng Thư, Sài Gòn,
1965), nhà nghiên cứu văn học rất tài hoa uy tín này tiếp tục xếp Trần Trọng
Kim vào hàng ngũ các nhà biên khảo tiêu biểu của giai đoạn 1907-1932…(http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&News=7246&CategoryID=42)
Qua các nghiên
cứu độc lập cho thấy, Trần Trọng Kim bị người Nhật tiếp cận khéo léo, khống chế
bắt đi cùng một số đại trí thức, khi điều kiện chín muồi, đưa ông về lợi dụng tâm
yêu nước, khát khao mong độc lập, tư tưởng bảo hoàng (sùng kính Bảo Đại) để lèo
lái ông này đứng ra lập Chính phủ toàn trí thức không am hiểu, va chạm chính trị,
ngây thơ tin rằng sẽ thuyết phục Nhật trao trả độc lập từ từ mà không đổ máu.
Trần Trọng Kim trải qua quá trình bị biệt giam lúc nước sôi lửa bỏng, thả về và
rơi vào tình thế “không thể không lập” ra Chính phủ mới khi hoàn toàn không hiểu
biết gì thế giới và bối cảnh cách mạng, tình hình trong nước, dân chúng, không
biết gì về Việt Minh (mà ông xem như “giặc cỏ”), không đảng phái, không lực lượng,
dựa hoàn toàn vào danh nghĩa “Hoàng đế” Bảo Đại để “tay không đòi độc lập”
trong sự ngây thơ chính trị khó có thể tưởng tượng nổi.
Chính bởi vậy, khi đọc cuốn hồi ký của ông Trần
Trọng Kim, thấy “tâm thế” của vị Thủ tướng dự định học theo cách “Chính phủ
trung lập” của Thái Lan bất thành, sau chỉ còn mong mau chóng “đòi” được Nhật “trao
trả” độc lập trên giấy tờ 3 miền, thấy đó là hoàn thành “sứ mệnh” để được thoái
vị. Sau khi Nhật thua cuộc, ông cũng muốn tìm cách thức thỏa hiệp tương tự với
Pháp để tránh cảnh đầu rơi máu chảy, ly thương, tang tóc của dân tộc nhưng rồi
ông cũng nhận ra bản chất của Pháp và thừa nhận “Tôi vẫn biết việc chống với
Pháp chỉ có V.M. mới làm nổi… Nay V.M. đứng vào cái địa vị chống Pháp, tất là
có cái thanh thế rất mạnh”. Cuối
đời ông tiếp tục theo Bảo Đại vào Nam, cái chết đột ngột của ông có nghi vấn
ông bị Pháp sát hại.
Mời đọc trích
đoạn sau để thấy quá trình thành lập Chính phủ “ngon như ăn cơm”, không quân đội,
không tài chính, không vũ khí…tất tần tật đều dựa trên sự “thuyết phục” người
Nhật. Nếu gọi đó là bộ máy Nhà nước thì đó không hơn là xự xuyên tạc, bịa đặt
khái niệm này.
Nguyễn Biên
Cương
=======
Chỉ một năm sau khi về hưu (1943), thời cuộc bắt đầu đưa
đẩy chuyển ông sang một hướng rẽ đầy phong ba bão táp mà bình sinh có lẽ ông
chưa bao giờ kịp nghĩ tới. Người Nhật, kéo vào Đông Dương từ những năm 40, với
nhiều ý đồ có sẵn trong mối quan hệ tranh quyền với Pháp, đã bắt đầu cho người
ve vãn, tìm cách lui tới làm quen, lấy cớ để hỏi han ông những kiến thức liên
quan các vấn đề văn hóa, lịch sử. Việc này Trần Trọng Kim đã thuật lại khá rõ
trong tập hồi ký cuối đời “Một cơn gió bụi”, mà gần đây đã được đưa lên mạng
Internet nên rất dễ tìm đọc. Ngay từ chương đầu, thái độ sống và lập trường
chính trị của ông đã được bộc lộ khá rõ:
“Sau 31 năm
làm việc trong giáo giới…, đến năm 1942 mới được về hưu. Tưởng thế là được nghỉ
ngơi cho trọn tuổi già. Bởi vì trong một đời có nhiều nỗi uất ức sầu khổ về
tình thế nước nhà, về lòng hèn hạ đê mạt của người đời, thành ra không có gì là
vui thú. Một mình chỉ cặm cụi ở mấy quyển sách để tiêu khiển…
“Năm Quý Mùi (1943) là năm trăng mờ gió thảm, tiếng chiến tranh inh ỏi khắp
hoàn cầu, toàn xứ Ðông Dương bị quân Nhật Bản tràn vào, họa chiến tranh mỗi
ngày một lan rộng. Dân Việt Nam bị đói kém đau khổ đủ mọi đường, lại căm tức về
nỗi nước nhà suy nhược phải bị đè nén dưới cuộc bảo hộ trong sáu bẩy mươi năm,
cho nên ai cũng muốn nhân cơ hội ấy mà gây lại nền độc lập đã mong mỏi từ bao
lâu.
“Trong khi nước Pháp đang bị cái nạn chiến tranh, người Pháp đối với người Việt
Nam không đổi thái độ chút nào, mà người Nhật thì lại muốn lợi dụng lòng ái
quốc của người Việt Nam để quyến dụ người ta theo mình….
“Nước Nhật Bản trước vốn là một nước đồng văn đồng hóa ở Á Ðông, nhưng về sau
đã theo Âu hóa, dùng những phương pháp quỷ quyệt để mở rộng chủ nghĩa đế quốc
của họ… Người Nhật tuy dùng khẩu hiệu "đồng minh cộng nhục" và lấy
danh nghĩa "giải phóng các dân tộc bị hà hiếp", nhưng thâm ý là muốn
thu hết quyền lợi về mình. Bởi vậy chính sách của họ thấy đầy những sự trái
ngược, nói một đàng làm một nẻo. Cái chính sách ấy là chính sách bá đạo rất
thịnh hành ở thế giới ngày nay. Dùng lời nhân nghĩa để nhử người ta vào tròng
của mình mà thống trị cho dễ, chứ sự thực thì chỉ vì lợi mà thôi, không có gì
là danh nghĩa cả.
“Trong hoàn cảnh khó khăn ấy tôi phải nén mình ngồi yên. Song mình muốn ngồi
yên mà người ta không để cho yên. Hết người này đến nói chuyện lập hội này,
người khác đến nói chuyện lập đảng nọ. Ðảng với hội gì mà tinh thần không có,
sự tổ chức chẳng đâu ra đâu thì càng nhiều đảng và hội bao nhiêu lại càng thêm
rối việc bấy nhiêu, chứ có ích gì? Bởi vậy đối với ai, tôi cũng lấy lòng ngay
thẳng mà đáp lại, nhưng không đồng ý với ai cả” (Một cơn gió bụi, NXB Vĩnh Sơn, Sài Gòn, 1969, tr.
9-12).
Việc dàn
cảnh bắt Trần Trọng Kim đưa đi giấu sẵn ở Chiêu Nam Đảo (tức Singapour do Nhật
chiếm đóng) để chuẩn bị cho một mưu đồ tương lai, lấy cớ là để bảo vệ ông thoát
khỏi sự rình rập bắt bớ của mật thám Pháp, cũng đã được kể rõ trong chương tiếp
theo của tập hồi ký Một cơn gió bụi, nhưng để tóm tắt hơn và có phần
khách quan hơn, xin trích dẫn thêm vài đoạn kể tiếp sau của Bùi Diễm:
“Vào một buổi sáng tự dưng có
một sinh viên đứng tuổi người Nhật tên Yamaguchi đến nhà xin được phép nói
chuyện với ông chú tôi. Yamaguchi diễn tả rất lưu loát bằng tiếng Pháp rằng ông
đang nghiên cứu sử Việt Nam và đến tìm ông chú tôi để thỉnh cầu giúp đỡ.
Yamaguchi cho biết ông đang tìm hiểu về một giai đoạn đặc biệt trong triều đại
Nhà Nguyễn.
“Từ đó Yamaguchi thường xuyên lui
tới (…). Tuy chẳng làm cách nào rõ được ý đồ của Yamaguchi, chúng tôi biết rõ
là ông đến với ý định khác (…), chắc chắn chẳng liên quan gì đến các triều đại
Nhà Nguyễn. Trong khi đó Yamaguchi cũng xuất hiện tại nhiều nơi khác….Ông liên
lạc với các giáo sư, nói về tình huynh đệ giữa những người Á, về việc giúp đỡ
lẫn nhau dành lại chủ quyền. Ông cũng nhắc nhở, hô hào "Người Á, đất
Á" và cố đề cao vai trò của Nhật trong các phong trào giúp đỡ, giao hảo
với người Việt.
(…)
“Mặc dầu ông chú tôi vẫn chăm chỉ viết sách, cuộc sống của ông thực sự đã thay đổi rất nhiều vào năm vừa qua. Những biến chuyển chính trị dồn dập đã đẩy ông phần nào ra khỏi tư thế khách quan trong vấn đề tranh đấu cho độc lập. Lúc này ông khách sinh viên Yamaguchi đến thăm viếng ông chú tôi thường xuyên hơn bao giờ hết. Hơn nữa, cả mật thám Pháp cũng đã giám sát cẩn mật nơi cư ngụ và các hành động của ông chú tôi.
“Mặc dầu ông chú tôi vẫn chăm chỉ viết sách, cuộc sống của ông thực sự đã thay đổi rất nhiều vào năm vừa qua. Những biến chuyển chính trị dồn dập đã đẩy ông phần nào ra khỏi tư thế khách quan trong vấn đề tranh đấu cho độc lập. Lúc này ông khách sinh viên Yamaguchi đến thăm viếng ông chú tôi thường xuyên hơn bao giờ hết. Hơn nữa, cả mật thám Pháp cũng đã giám sát cẩn mật nơi cư ngụ và các hành động của ông chú tôi.
“Tuy đã biết rành rọt mọi chuyện mà
vào một hôm đến chơi tôi vẫn bàng hoàng khi được bà mợ cho biết tin chú tôi
không còn ở nhà nữa. "Chú phải lên đường đi xa," mợ tôi tiếp tục cho
thêm tin "vì mật vụ Pháp rình rập và đã lên đường đi Singapore cùng ông
Yamaguchi rồi" (Gọng kềm
lịch sử, sđd.).
(Trong hồi ký của mình Trần Trọng Kim mô tả ông chỉ muốn lánh
sang nhà người Nhật quen biết tránh bị Pháp bắt nhưng bị Hiến binh Nhật đến “ép”
đi trong tình thế không thể chống cự, không thể quay đầu trở lại)
Chuyến đi đó, khởi đầu từ ngày
27.10. 1943 và chính thức xuống tàu thủy ngày 1.1.1944, cùng với một người bạn
nữa cũng cảnh ngộ bị “bắt cóc” vào chung chỗ hiến binh Nhật như ông là cụ Dương
Bá Trạc (1884-1944), nằm trong dự mưu do người Nhật khéo tác động và dẫn dắt,
đối với Trần Trọng Kim được coi là một chuyến đi định mệnh, hướng cuộc đời ông
vào một ngả rẽ hoàn toàn không chủ động, nếu không muốn nói gần như trái hẳn
với lập trường chính trị ban đầu của ông. Tuy nhiên, có nhiều khả năng trong
quá trình tiếp xúc sau này với các đại diện Nhật Bản ở Chiêu Nam Đảo và những
nơi khác, Trần Trọng Kim đã được người Nhật tìm cách rỉ tai vận động để gieo
cho ông mầm mống hi vọng về tương lai độc lập-canh tân xứ sở dưới sự bảo trợ
của họ, nhưng điều này thì Trần Trọng Kim vẫn kín miệng không thấy kể ra trong
hồi ký. Dù sao, mưu đồ của Nhật cũng đã quá rõ, không mấy cần phải có thêm tài
liệu để chứng minh.
Sau khoảng một năm trải qua cuộc
sống chờ đợi buồn tẻ ở Chiêu Nam Đảo, Dương Bá Trạc đã mất tại đây vào ngày 11 tháng 12 năm 1944 (nhằm 26 tháng 10 năm Giáp Thân) vì bệnh ung thư phổi,
thi hài được Nhật tổ chức hỏa táng đem về nước. Lúc này chỉ còn một mình Trần
Trọng Kim ở lại với vài người khác do Nhật đã đưa qua sẵn trước đó, để đến ngày
16.1.1945 thì được bố trí đi Băng Cốc (Thái Lan) cùng với Đặng Văn Ký, một
thành viên chủ chốt của đảng Phục Quốc thân Nhật.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, vào lúc 21 giờ, sau khi bị Toàn quyền Pháp Decoux tìm cách
trì hoãn yêu sách do đại sứ Nhật tại Đông Dương Shunichi Matsumoto đưa ra trong
một tối hậu thư đã trao chỉ trước đó 2 giờ, đòi Pháp phải đặt toàn bộ quân đội
và bộ máy cai trị thuộc địa dưới quyền điều khiển của mình, Tổng tư lịnh Nhật Yuichi Tsuchihashi đã ra
lệnh mở màn cuộc đảo chánh lật đổ chế độ thực
dân Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Bị tấn công bất ngờ vì chưa hề
hay biết trước, quân Pháp thất thế trên khắp cả ba kỳ Nam, Trung, Bắc và chỉ
chống trả một cách yếu ớt rồi đầu hàng ngay trong ngày hôm sau. Toàn thể quan chức đầu não của Pháp đều bị bắt giam, kể cả
Toàn quyền Decoux, một số khác cùng quân lính phải bỏ chạy thoát thân sang Lào
hoặc Trung Quốc.
Việc đảo chánh, Nhật đã chuẩn bị kỹ
sẵn trước, nên chỉ từ 9 giờ tối hôm trước đến 8 giờ sáng hôm sau, toàn cõi Việt
Nam rơi vào tay Nhật, cả thực dân Pháp và thường dân, công chức đều bất ngờ.
Tình cảnh của họ lúc đó lao đao, nhưng nhờ tính rộng lượng cố hữu của người dân
Việt, nên cũng không đến đỗi quá bi thảm: “… Các nhà chuyên môn Pháp được
tiếp tục làm việc… Một vài kĩ sư Pháp mon men tới sở, bị đánh… Sau tôi nghe nói
một số người Pháp ở miền Tây trốn vào bưng, không bị dân chúng đánh đập, giam
giữ, tố cáo; có người còn giúp đỡ lương thực, che chở cho họ nữa. Ở Nam này như
vậy, mà có lẽ ở Bắc, Trung cũng không khác mấy…. Có người bảo người Việt nào
cũng có một ông Phật ở trong lòng, câu ấy đúng” (Hồi ký Nguyễn Hiến Lê,
NXB Văn Học, 1993, tr. 233-234).
Ngày 10.3.1945, lúc 11 giờ, Đại sứ
Nhật ở Huế là Masayuki Yokoyama vào gặp vua Bảo Đại giải thích tình hình, tuyên bố “trao trả độc lập cho Việt Nam
để cùng nhau xây dựng khối Đại Đông Á thịnh vượng”, đề nghị vua ra tuyên bố độc
lập và chuẩn bị thành lập chính phủ mới trên cơ sở hợp tác dưới sự bảo
trợ của Nhật.
Ngay hôm sau, ngày 11. 3.1945, triều đình Huế tuyên bố bãi bỏ Hòa
ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, nước Việt Nam được quyền thu hồi độc lập (dưới bản tuyên bố ký tên vua Bảo Đại cùng
toàn thể Cơ mật viện, đứng đầu là Thượng thư Bộ Lại Phạm Quỳnh).
Ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và một
vài thành phố lớn, do sự sách động của các nhóm thân Nhật, một số người xuống
đường rầm rộ để tri ân quân đội Nhật hoàng, nhưng quảng đại quần chúng thì đều
tỏ vẻ thờ ơ lạnh nhạt với phong trào “độc lập” do Kempeitai (Hiến binh) và quân
đội Nhật dựng nên. Ngày 17.3.1945, ở các hương thôn, lý trưởng được lệnh tổ
chức dân chúng mừng ngày độc lập tại các đình làng: “Cửa đình mở rộng, trước
sân đình có cờ, chuông, trống, như ngày cúng Thần. Hội đồng xã chỉ lưa thưa có
mấy ông. Dân chúng chẳng ai đến cả, trừ một số chức việc có phận sự trong làng.
Đến giờ, chuông trống nổi dậy, hương xã làm lễ tế Thần. Lý trưởng đọc lời
‘tuyên cáo độc lập’. Y như một bài văn tế. Xong, chiêng trống tiếp tục và buổi
lễ chấm dứt không đầy 30 phút. Không một tiếng vỗ tay. Không một lời hoan hô.
Các ông làng xã, khăn đen áo dài khệ nệ như trong các đám cúng Thần theo nghi
lễ cổ truyền, lặng lẽ đóng cửa đình sau khi dọn dẹp” (Nguyễn Vỹ, Tuấn
chàng trai nước Việt, Quyển II, Sài Gòn, 1970, tr. 513).
Cũng trong ngày 17.3.1945, Bảo Đại
ban bố Đạo dụ số 1 theo đó nhà vua sẽ đích thân cầm quyền và chế độ chính trị
mới sẽ quản lý đất nước theo khẩu hiệu “Dân vi quý” (dân trên hết), chỉnh đốn
lại quốc gia, đồng thời kêu gọi các bậc hiền tài ra giúp nước.
Ngày 18.3.1945, biểu tình lớn tại
Sài Gòn để mừng độc lập, cảm ơn Nhật, và đón rước di hài nhà cách mạng Dương Bá
Trạc đưa từ Chiêu Nam (Singapour) về (theo Đoàn Thêm, Hai mươi năm qua
1945-1964-Việc từng ngày, Nam Chi Tùng Thư, Sài Gòn, 1966, tr. 5).
Một ngày sau, giải tán Cơ mật viện
gồm 6 quan chức tối cao của triều đình nhà Nguyễn do Phạm Quỳnh đứng đầu.
Để chuẩn bị nội các mới, Bảo Đại
hai lần gởi điện vào Sài Gòn mời Ngô Đình Diệm ra Huế, nhưng cả hai bức điện
đều bị tình báo Nhật cố ý ngăn chặn, nêu giả lý do Ngô Đình Diệm cáo bệnh không
ra Huế được, vì thật ra phương án sắp đặt cho hoàng thân Cường Để (1882-1951) lên ngôi vua và Ngô Đình Diệm (1901-1963) giữ chức thủ tướng trước đó không lâu đã bị giới lãnh đạo
quân sự Nhật hủy bỏ, do không muốn gây nhiều xáo trộn, để
thay vào bằng kế hoạch Bảo Đại-Trần Trọng Kim cũng được chuẩn bị sẵn từ hơn một
năm trước.
Ngày
30.3.1945, Nhật cho người bố trí đưa Trần Trọng Kim từ Băng Cốc về Sài Gòn, lấy
cớ Tư lệnh bộ ở Sài Gòn mời về để “hỏi việc gì về lịch sử” (Trần Trọng Kim,
sđd., tr. 42). Đến nơi viên trung tướng tham mưu trưởng thuộc Bộ tư lệnh
Nhật mới cho hay Phạm Quỳnh và các thượng thư cũ đã từ chức, vua Bảo Đại mời
ông cùng với các ông Hoàng Trọng Phu, Vũ Ngọc Oánh, Trịnh Bá Bích, Hoàng Xuân Hãn,
Cao Xuân Cẩm về Huế hỏi ý kiến.
Thấy tên mình mà không có tên Ngô
Đình Diệm, Trần Trọng Kim hỏi viên trung tướng: “Tôi
không có hoạt động gì, và không có phe đảng nào cả. Gọi tôi về Huế không có ích
lợi gì. Xin cho tôi ra Hà Nội thăm nhà và uống thuốc”. Viên trung tướng trả
lời: “Đó là ý của vua Bảo Đại muốn hỏi ông về việc lập chính phủ mới, ông cứ
ra Huế rồi sẽ biết” (sđd., tr. 43).
Ngày 2.4.1945, Nhật bố trí cho Trần
Trọng Kim đáp xe lửa ra Huế. 19 giờ rưỡi ngày 5.4 xe lửa đến Huế, lát sau ông
đã được gặp lại vợ con có sẵn ở đó, nói là đang trên đường ra Hà Nội định xin
phép qua Xiêm tìm ông, nhưng sự tình cờ kỳ lạ này đã khiến có người suy diễn
nhiều khả năng chính người Nhật đã sắp đặt sẵn sao đó.
Những thay đổi giai đoạn cuối trong
sự sắp xếp nhân sự cho bộ máy cai trị mới này, cả Bảo Đại, Cường Để, Ngô Đình
Diệm đều không hay biết. Duy Trần Trọng Kim có được người Nhật rỉ tai riêng cho
biết hay không thì đây vẫn còn là một điểm nghi vấn, vì không thấy ông hé môi
kể ra trong tập hồi ký, nhưng khả năng này là rất lớn, vì từ hôm ở Băng Cốc về
Sài Gòn, chiều nào viên đại úy ở Bộ tư lệnh Nhật cũng mời ông đến ăn cơm và nói
chuyện, có khi nói chuyện đến một hai giờ khuya. “Mấy ngày như thế, đến
chiều hôm mùng hai tháng tư, đại úy đưa tôi ra xe lửa còn ngồi nói chuyện đến
lúc xe chạy” (Trần Trọng Kim, sđd., tr. 46).
Ngày 7.4.1945,
Trần Trọng Kim vào yết kiến Bảo Đại. Theo như lời kể của ông trong tập hồi ký
thì ông tìm cớ thoái thác việc đứng ra lập chính phủ, lấy lý do già yếu, không có
đảng phái và không hoạt động chính trị, rồi đề nghị dùng “người đã dự định từ
trước, như Ngô Đình Diệm chẳng hạn” (sđd., tr. 49) nhưng Bảo Đại cho hay đã gọi
mà không thấy Ngô Đình Diệm về. Nhà vua không ép, chỉ yêu cầu ông ở lại Huế
nghỉ ít lâu, xem thế nào rồi hãy ra Bắc. Có lẽ lúc này vua vẫn còn tiếp tục
ngóng tin Ngô Đình Diệm, đâu có dè rằng kịch bản Cường Để-Diệm đã bị cánh tướng
lãnh Nhật bác bỏ, nên tìm cách ngăn chặn hai bức điện liên lạc của Bảo Đại,
giữa lúc ông Diệm đang ở Sài Gòn trong một tâm trạng đợi chờ thấp thỏm!
Đợi tin Ngô Đình Diệm lâu không được, Bảo Đại sốt ruột quyết
định mời Trần Trọng Kim vào làm
việc lần thứ hai, thuyết phục thành lập nội các. Xin trích tiếp đoạn
hồi ký, qua đó vừa thấy được nội dung cuộc trao đổi giữa hai người, vừa luôn
thể biết qua thành phần nội các do ông Trần đề nghị và được Bảo Đại chuẩn y
ngay:
“Vua Bảo
Ðại thấy tình thế kéo dài mãi cũng sốt ruột, triệu tôi vào bảo tôi chịu khó lập
chính phủ mới.
“Ngài nói:
“Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn,
nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì
người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất
hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc
nước”.
Tôi thấy vua Bảo Ðại thông minh và am hiểu tình thế, liền tâu rằng:
“Nếu vì quyền lợi riêng tôi không dám nhận chức gì cả, xong ngài nói vì nghĩa
vụ đối với nước, thì dù sao tôi cũng cố hết sức. Vậy xin ngài cho tôi vài ngày
để tôi tìm người, hễ có thể được tôi xin tâu lại.
“Tôi ra bàn với ông Hoàng Xuân Hãn để tìm người xứng đáng làm bộ trưởng. Nguyên
tắc của tôi định trước là lựa chọn những người có đủ hai điều kiện. Một: phải
có đủ học thức và tư tưởng về mặt chính trị, hai: phải có đức hạnh chắc chắn để
dân chúng kính phục...
“Có một điều nên nói cho rõ, là trong khi tôi chọn người lập chính phủ lúc ấy,
người Nhật Bản không bao giờ hỏi tôi chọn người này người kia. Tôi được hoàn
toàn tự chủ tìm lấy người mà làm việc. Và tôi đã định từ trước rằng nếu người
Nhật can thiệp vào việc trong nước thì tôi thôi ngay, không làm nữa.
Ðến ngày cuối cùng tôi chọn được đủ người rồi kê rõ danh sách các bộ trưởng như
sau:
-
Trần Trọng Kim, giáo sư, Nội các Tổng trưởng
-
Trần Ðình Nam, y sĩ, Nội vụ Bộ trưởng
-
Trần Văn Chương, luật sư, Ngoại giao Bộ trưởng
-
Trịnh Ðình Thảo, luật sư, Tư pháp Bộ trưởng
-
Hoàng Xuân Hãn, toán học thạc sĩ, Giáo dục và Mỹ nghệ Bộ trưởng
-
Vũ Văn Hiền, luật sư, Tài chánh Bộ trưởng
-
Phan Anh, luật sư, Thanh niên Bộ trưởng
-
Lưu Văn Lang, kỹ sư, Công chính Bộ trưởng
-
Vũ Ngọc Anh, y khoa bác sĩ, Y tế Bộ trưởng
-
Hồ Bá Khanh, y khoa bác sĩ, Kinh tế Bộ trưởng
-
Nguyễn Hữu Thí, cựu y sĩ, Tiếp tế Bộ trưởng.
“Chừng mười giờ sáng ngày 17 tháng
tư năm 1945, tôi đem danh sách ấy vào trình vua Bảo Ðại. Vào đến nơi, tôi thấy
ông Yokohama, tối cao cố vấn Nhật, đã ngồi đó rồi. Ông thấy tôi vào liền hỏi:
"Cụ đã lập thành chính phủ rồi à?". Tôi nói: "Vâng, hôm nay tôi
đem danh sách các bộ trưởng vào tâu trình hoàng thượng để ngài chuẩn y".
“Tôi đệ
trình vua Bảo Ðại, ngài xem xong phán rằng: "Ðược". Khi ấy ông
Yokohama nói: "Xin cho tôi xem là những ai". Ông xem rồi, trả lại tôi
và nói: "Tôi chúc mừng cụ đã chọn được người rất đứng đắn". Sự
thực là thế, chứ không như người ta đã tưởng tượng là người Nhật Bản bắt tôi
phải dùng những người của họ đã định trước”
(sđd., tr. 50-53).
Ngoài các bộ trưởng đã nêu trong
danh sách, bộ máy chính phủ Trần Trọng Kim còn lần lần được bổ sung, gồm có:
- Phan Kế Toại (1892-1992), Tổng đốc, Khâm sai Bắc Bộ (sau giữ chức Phó Thủ tướng, Bộ
trưởng Nội vụ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa)
- Nguyễn Văn Sâm, Nhà báo, Khâm sai
Nam Bộ (được cử theo Đạo dụ 108 ngày 14.8.1945, sau bị ám sát ngày 10.10. 1947)
- Trần Văn Lai, Bác sĩ, Đốc lý Hà
Nội (sau giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban hành chính TP Hà Nội)
- Đặng Văn Hướng (1887-1954), Phó bảng, Tổng đốc Nghệ An (sau giữ chức Quốc vụ khanh đặc
trách công tác ở 3 tỉnh Thanh-Tĩnh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)
- Vũ Trọng Khánh (1912-1996), Luật sư, Đốc lý Hải Phòng (sau giữ chức Bộ trưởng Tư pháp
đầu tiên của Chính phủ Lâm thời)
- Kha Vạng Cân (1908-1982), Kỹ sư, Đô trưởng Sài Gòn (sau giữ chức Bộ trưởng Bộ Công
nghiệp nhẹ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa)
Qua sự trình bày ở trên, có thể
thấy ngày càng rõ hơn việc đưa Trần Trọng Kim đứng ra lập nội các cho Bảo Đại
trước sau đều do người Nhật đạo diễn một cách khéo léo để dẫn dụ Trần Trọng Kim
vào “tròng”. Được cái, cả họ và vua Bảo Đại đều không can thiệp sâu theo kiểu
cơ cấu sẵn các thành phần nhân sự cấp bộ trưởng, như lối quy hoạch, cơ cấu nhân
sự chặt chẽ bây giờ. Nhờ vậy Trần Trọng Kim đã có được sự chủ động trong việc
tìm chọn nhân tài thích hợp theo quan niệm của mình.
Tuy nhiên, theo luật sư Trịnh Đình
Thảo (1901-1986), một thành viên chủ chốt của Nội các, Trần Trọng Kim “không
tin ở sự thành thật của nhà cầm quyền người Nhật và lo ngại bị lôi cuốn vào
những biến cố có hại cho tương lai xứ sở”, nhưng ông Trịnh đã thuyết phục được
ông Kim nhận lời yêu cầu của Bảo Đại với lý do “phải gấp rút thành lập chính
phủ Việt Nam độc lập để đặt các lực lượng Đồng minh, nhất là Pháp, trước một
tình trạng pháp lý không thể đảo ngược bằng lời tuyên cáo hủy bỏ các hiệp ước
bảo hộ…, tuyên cáo Việt Nam độc lập và thống nhất”. Ngoài ra ông Thảo còn cho
biết Trần Trọng Kim đã được một chính khách Thái Lan là cựu Bộ trưởng Ngoại
giao Thái Lan Pridi Banomyong chia sẻ kinh nghiệm “bắt cá hai tay” (jouer sur
les deux tableaux) để có thể tồn tại như Thái Lan, đại khái bằng cách song song
với phe thân Nhật, Thái Lan cần dự bị sẵn một lực lượng chính trị khác hợp tác
với Đồng minh để tránh cho Thái Lan bị liệt vào phe thua trận khi Thế chiến II
kết thúc. Vị chính khách này còn khuyên Trần Trọng Kim “hãy nắm lấy độc lập mà
không theo Nhật” (Trịnh Đình Khải, Décolonisation du Vietnam: Un Avocat
Témoigne, Paris, 1994, tr.62, dẫn lại theo Lê Xuân Khoa, Việt Nam
1945-1995, Tiên Rồng, USA, 2004, tr. 52-53).
Nói gì thì nói, về mặt lịch sử, vẫn
phải công nhận Nội các vừa thành lập ngày 17.4.1945 là chính phủ đầu tiên của Việt Nam theo nghĩa hiện đại, và Trần Trọng Kim đã
trở thành vị Thủ tướng đầu tiên của nước
Việt Nam độc lập, dù chỉ mới độc lập trên danh nghĩa. Tham gia Nội các
của ông đều là các nhà trí thức tên tuổi,
có trình độ học vấn cao, nhiệt tâm, trong sạch và yêu nước, nhưng tất cả đều
thiếu hẳn kinh nghiệm quản lý và nhất là sự lọc lõi chính trị trong thời loạn.
“Trừ Thủ tướng Trần Trọng Kim,
chỉ có bằng cấp Trung học, chư quý vị bộ trưởng toàn có những bằng cấp to lớn:
nào thạc sĩ bác sĩ, tiến sĩ luật khoa v.v. cả. Người dân Việt mừng thầm khi đọc
danh sách nội các… Nhưng…” (Bùi Nhung, Thối nát, Sài Gòn, 1965, tr.
50).
Về thái độ của quần chúng trước
việc thành lập nội các mới, nhìn chung các thành phần trí thức (gồm cả sinh
viên học sinh) đều nao nức phấn khởi đón luồng gió mới, một số khác dè dặt chờ
đợi, vì thấy vẫn còn lệ thuộc Nhật. Nhóm Thanh Nghị đứng đầu là Vũ Đình
Hòe thậm chí từ ngày 20.4.1945 còn có hẳn một chương trình riêng gọi là TÂN
VIỆT NAM HỘI để ủng hộ Chính phủ (xem Hồi ký Vũ Đình Hòe, NXB Hội Nhà
Văn, 2004, tr. 166-167).
Phấn khởi tiếp đón nền độc lập bán
phần vừa vớ được, ông Nguyễn Duy Phương còn cho ra hẳn một tập sách mỏng chuyên
đề lấy tên Lịch sử độc lập và Nội các đầu tiên Việt Nam, do Việt Đông
Xuất Bản Cục xuất bản tại Hà Nội khoảng nửa tháng sau khi Nội các thành lập, để
bày tỏ sự ủng hộ tích cực, bằng cách trích đăng khá đầy đủ và hệ thống những
tin tức, bài phỏng vấn các vị bộ trưởng liên quan các mặt hoạt động cùng chủ
trương mới của Nội các, với lời hô hào nêu rõ: “Chỉ hợp quần mới gây nên sức
mạnh… Chúng ta hãy đem hết tài năng sĩ, nông, công, thương ra thực dụng. Để
giải quyết những vấn đề quan trọng, để tiếp tế, cứu tế cho đỡ nỗi thống khổ
đồng bào nghèo đói! Và để giữ vững đất đai thế nào là độc lập của Việt Nam một
cách bất diệt”*.
Một số đảng phái quốc gia như Đại
Việt (ở Hà Nội), Phục Quốc, Việt Nam Quốc Gia Độc Lập (ở Sài Gòn), Tân Việt Nam
(ở Huế) đều ủng hộ Nội các Trần Trọng Kim và được Nhật khuyến khích.
Riêng dân chúng ở
các vùng nông thôn thì vẫn thờ ơ với chính trị.
Thế rồi đến ngày 8.5.1945, Nội các Trần Trọng Kim mới chính thức tổ chức lễ ra mắt quốc dân tại Dinh Tổng trưởng (tòa Khâm sứ Trung Kỳ cũ). Đầu tiên
đọc bản Tuyên chiếu của Hoàng đế Bảo Đại về việc thành lập Nội các: “Trẫm đã
lựa chọn khắp nhân tài trong nước, kén lấy những người có học thức, có kinh
nghiệm để đương việc nước trong buổi bây giờ. Trẫm chắc rằng chư khanh sẽ làm
chức vụ không phụ lòng trẫm ủy thác và lòng dân kỳ vọng. Điều cần nhất là phải
gây sự đồng tâm hiệp lực trong toàn thể quốc dân. Phải đoàn kết chặt chẽ các
giai từng xã hội và luôn luôn giữ một mối liên lạc giữa chính phủ và nhân dân
(…)” (Nghiêm Kế Tổ, Việt Nam máu lửa, NXB Mai Lĩnh, Sài Gòn, 1954,
tr. 24).
Sau đó, Nội
các đưa ra bản tuyên cáo khẳng định nền độc lập mới có được sau 80 năm bị Pháp
áp chế, cám ơn Nhật Bản đã ra tay “giải phóng”, kêu gọi quốc dân ra sức
đoàn kết, gây mạnh tinh thần yêu nước trong mọi giai tầng xã hội, “tìm mọi
cách để các chính khách còn phiêu lưu được trở về tổ quốc, xóa bỏ những hình án
bất công, để những người ái quốc còn bị giam cầm trong lao ngục có thể tùy tài
sức mà tham dự vào công cuộc kiến thiết quốc gia”; chăm lo việc cứu đói,
định lại thuế khóa cho công bằng; đặt những cơ quan để liên lạc mật thiết giữa
chánh phủ với dân chúng; thống nhất pháp luật trong toàn quốc và tránh sự lạm
quyền, tiệt trừ nạn tham nhũng; rèn luyện lớp thanh niên mới có khí khái có
nghề nghiệp; chú trọng nâng cao trình độ sinh hoạt của dân chúng. “Chúng tôi
xin tuyên thệ với quốc dân đem hết tâm trí để theo đuổi mục đích duy nhất là
xây đắp nền độc lập nước nhà, không tư vị cá nhân hay đảng phái. Chúng tôi chắc
rằng mọi người trong quốc dân cũng một lòng vì nước, giữ thái độ bình tĩnh và
tuân theo kỷ luật, để làm hết phận sự. Mong nền móng xây đắp được vững vàng để
cơ đồ nước Việt Nam ta muôn đời trường cửu” (nguyên văn bản tuyên cáo này
có in trong phần phụ lục Một cơn gió bụi, sđd., tr.
192-195).
Kế hoạch đặt ra đầy hứa hẹn. Tuy
nhiên, Chính phủ Trần Trọng Kim tiếp quản bộ máy cai trị của Pháp, thông qua sự
thu xếp bàn giao lại của Nhật, đã hoạt động trong những điều kiện vô cùng khó
khăn. Theo nhà sử học Pháp Philippe Devillers, có hai điểm trở lực căn bản
nhất, đó là sự thiếu chín muồi về chính trị của dân chúng và quyền ngăn cấm của
người Nhật: “Quyền cấm cố của Nhật là rất nặng nề, cả về kế hoạch chính trị
lẫn kế hoạch kinh tế và quân sự” (Histoire du Viêt Nam de 1940 à 1952,
Éditions du Seuil,1952, tr. 128). Ngoài ra, còn nhiều nỗi khó khăn cụ thể và
trực tiếp khác: bộ máy quan lại thực dân nửa phong kiến đã thối nát quá lâu;
nạn đói khủng khiếp ở miền Bắc từ tháng 3.1945 vì mất mùa và một phần quan
trọng vì chính sách nông nghiệp thời chiến do Pháp-Nhật gây ra làm cả triệu
người chết, thây phơi đầy đường; bom đạn do quân Đồng minh Anh, Mỹ đổ xuống phá
nát các cơ sở hạ tầng làm cho công tác cứu đói của Bộ Tiếp tế càng trở nên khó
khăn trầy trật; Nhật ngày càng thua đậm trong trận Thế chiến (nhất là sau hai
lần bị ném bom nguyên tử trong các ngày 6 và 8.8.1945); Pháp lăm le tái chiếm
Đông Dương bằng mọi giá; thiếu sự hậu thuẫn tinh thần của quảng đại quần chúng,
trong khi đó, hoạt động của Việt Minh, được chuẩn bị từ lâu và một cách khéo
léo, có sách lược hẳn hoi, đang ngày càng tăng mạnh với chủ trương đánh đổ cả
Pháp-Nhật lẫn chính quyền phong kiến giành độc lập, được nhân dân nhiều nơi
trên khắp cả ba miền đất nước hưởng ứng. Nội các Trần Trọng Kim lâm vào thế bị
động và ngày càng lúng túng, phải chấp nhận từ chức, tiếp theo là việc thoái vị
của cả vua Bảo Đại vì áp lực của cao trào cách mạng.
Theo Những ngày chưa quên
của Đoàn Thêm (Nam Chi Tùng Thư, Sài Gòn, 1967, tr. 42): “Chánh phủ Trần
Trọng Kim lập xong chưa được bao lâu, thì niềm hi vọng của nhiều người, chứa
chan sau ngày 9.3.1945, đã nhường chỗ cho sự hoang mang và lo ngại. Vì thời
cuộc biến chuyển dồn dập ở khắp nơi, và những tin tức gây xúc động mạnh, dù bị
quân đội Nhật kiểm duyệt, cũng vẫn lan tràn mau lẹ”.
Liên quan việc Nội các Trần Trọng
Kim từ chức, cả hai tài liệu Một cơn gió bụi của Trần Trọng Kim và Từ
triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc của Phạm Khắc Hòe (NXB Hà Nội, 1983)
đều phản ảnh những thông tin cơ bản giống nhau, chỉ khác nhau về một số chi
tiết và ngày tháng. Đại khái, trước những diễn biến phức tạp của thời cuộc và
xu hướng quần chúng-trí thức ngã theo Việt Minh, nội bộ Chính phủ Trần Trọng
Kim đã bắt đầu có những dấu hiệu phân hóa về sự lựa chọn chủ trương, đường lối.
Được biết, trong khoảng thời gian
này, Vũ Đình Hòe (1912-2011), người đứng đầu nhóm Thanh Nghị, cùng chí hướng với
hai bộ trưởng Vũ Văn Hiền và Phan Anh (1912-1990), ban đầu rất tích
cực ủng hộ Chính phủ Bảo Đại-Trần Trọng Kim, nay thấy không ổn, bắt đầu có
những cuộc tiếp xúc với người của Việt Minh, thậm chí còn được đại diện của
Việt Minh là Dương Đức Hiền (1916-1963) kết nạp vào Đảng Dân chủ. Trong tập Hồi ký Vũ Đình Hòe (NXB
Hội Nhà Văn, 2004), ông cho biết: “Trước ngày 17 [tháng 6.1945] tôi đã gặp
hai anh Phan Anh và Vũ Văn Hiền, trao đổi nhận định về tình hình. Tôi cho hai anh biết tâm trạng của anh em trí thức ngoài Bắc
giảm sút lòng tin đối với Chính phủ [Trần Trọng Kim], một số coi như Chính phủ
bất lực rồi, còn dân chúng thì số đông ở thành phố trước sau vẫn thờ ơ, một số
dân quê ngày càng đông ngưỡng mộ Việt Minh. Tôi thành thực thổ lộ với
hai anh có lẽ nên dự bị ‘một hướng suy nghĩ khác’ cho kịp thời chuyển” (tr.
183).
Trong một cuộc họp Nội các (Phạm
Khắc Hòe nói ngày 3.8.1945) ở Dinh Tổng trưởng, cả ba bộ trưởng Hồ Tá Khanh (1908-1996), Trần Đình Nam (1896-1974), Nguyễn Hữu Thí đều
đề nghị Nội các nên rút lui để nhường quyền lãnh đạo cho Mặt trận Việt Minh
càng sớm càng tốt, may ra mới cứu được đất nước. Nội dung đề nghị này, cả ông
Hòe lẫn ông Kim đều trình bày giống nhau trong tập hồi ký của mỗi người. Nhưng
về phản ứng của Nội các Tổng trưởng trước đề nghị rút lui, mỗi người lại kể
khác nhau.
Theo sự mô tả của Phạm Khắc Hòe thì
ông Kim tỏ vẻ gay gắt, trách các bộ trưởng thiếu trách nhiệm, không khí buổi
họp trở nên căng thẳng (Phạm Khắc Hòe, sđd., tr. 45), còn Trần Trọng Kim trong
tập hồi ký của mình chỉ nói: “Sự tôi thôi, thì tôi đã dự định rồi nhưng để
lấy lại đất Nam Bộ cho trọn công việc của mình, tôi thôi ngay” (sđd., tr.
89).
Cuộc họp phải tạm dừng. Hai ngày
sau, 5.8.1945, toàn thể Nội các dâng lên vua tờ phiến xin từ chức. Ngày
6.8.1945, Bảo Đại chấp nhận đơn từ chức, nhưng yêu cầu tạm ở lại làm việc, chờ
tìm người lập nội các mới. Trần Trọng Kim tìm cách liên lạc với những người có
đảng phái như Ngô Đình Diệm, Nguyễn Xuân Chữ, Lê Toàn, Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu
Tường, Đặng Thai Mai… mời ra Huế lập nội các mới nhưng sau một tuần lễ không
thấy ai hưởng ứng, mà theo ông Kim tâu lại với Bảo Đại là do những người ông
mời đều rất cách mạng, rất tả, và vì điều này không làm vừa lòng người Nhật nên
họ đã chặn điện lại. Trong khi chờ đợi, ngày 12.8.1945, Bảo Đại ra đạo dụ đổi
nội các từ chức thành nội các lâm thời, làm việc chỉ được mấy ngày thì Nhật đầu
hàng Đồng minh vô điều kiện (14.8.1945). Tình thế bức bách, thế lực của Nhật
coi như tan rã, Đồng minh mạnh lên, chủ trương vận động vua Bảo Đại thoái vị
của Việt Minh thông qua đầu mối liên lạc của Tôn Quang Phiệt (1900-1973) được Đổng lý Ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hòe tích cực ủng
hộ, và theo đề xuất của Trần Đình Nam, một cuộc họp khẩn cấp nội các đã được
triệu tập sáng ngày 17.8.1945 do vua đích thân chủ tọa.
Nhóm Trần Đình Nam, Hồ Tá Khanh đề
nghị Nội các rút lui, vua Bảo Đại thoái vị, toàn dân đoàn kết chặt chẽ chung
quanh tổ chức mạnh nhất, hăng hái nhất là Việt Minh để bảo vệ nền độc lập. Theo
Phạm Khắc Hòe kể trong hồi ký thì Trần Trọng Kim phản ứng, một cuộc tranh luận
sôi nổi dấy lên, cuối cùng thống nhất ý kiến với bộ trưởng Vũ Văn Hiền (1911-1963), đề nghị tạm thời vẫn giữ chính thể quân chủ với vua Bảo
Đại nhưng giao cho Việt Minh tổ chức nội các, thể hiện trong Đạo dụ số 105 được
Phạm Khắc Hòe soạn thảo ngay sau đó, trong giờ giải lao 15 phút.
Trước cuộc họp, Phạm Khắc Hòe được
sự ủng hộ của Trần Đình Nam đã chuẩn bị sẵn một bản dự thảo theo đó khẳng định
tư cách và ý chí độc lập của dân tộc, kêu gọi mọi người ái quốc ra phò vua giúp
nước, và động viên tinh thần hi sinh của Hoàng đế. Khi bản dự thảo được vua Bảo
Đại cho phép đọc lên, Trần Trọng Kim phản ứng về việc hi sinh của Hoàng đế, cho
là ép vua quá, trong khi đó Phan Anh phát biểu dung hòa, nói để cho vua tự suy
nghĩ quyết định. Bảo Đại yêu cầu đọc lại đoạn “hi sinh của Hoàng đế” nêu trong
bản dự thảo để nghe cho rõ hơn, nghe xong vua đồng ý, giao cho Văn phòng (tức
cho Phạm Khắc Hòe) làm văn bản để chiều ký. Văn bản này tạm gọi là “Chiếu động
viên quốc dân” mà Bảo Đại đã ký ngay vào 4 giờ chiều hôm đó (17.8.1945) sau vài
phút do dự và “một cái nhún vai nhè nhẹ”, trong có đoạn: “Cuộc chiến tranh
thế giới đã kết liễu… Trước tình thế quốc tế hiện thời, trẫm muốn mau có nội
các mới… Muốn củng cố nền độc lập của nước nhà và bảo vệ quyền lợi của dân tộc,
trẫm sẵn sàn hi sinh về tất cả các phương diện. Trẫm để hạnh phúc của nhân dân
Việt Nam lên trên ngai vàng của trẫm. Trẫm ưng làm dân một nước độc lập hơn làm
vua một nước nô lệ. Trẫm chắc rằng toàn thể quốc dân cùng một lòng hi sinh như
trẫm” (Trần Trọng Kim, sđd., tr. 195-196; Phạm Khắc Hòe có dẫn lại trong Từ
triều đình Huế…, tr. 58-59).
Trong một diễn biến khác, ngày
19.8.1945 khi thấy tình thế đã nguy ngập đến nơi, “chỉ còn cách lui đi là
phải hơn cả”, đến lượt Trần Trọng Kim cũng vào gặp vua, dẫn gương của vua
Louis bên Pháp và vua Nicolas II bên Nga, đốc thúc Bảo Đại phải thoái vị ngay
không nên chần chừ (Trần Trọng Kim, sđd., tr. 92).
Đến giờ phút này, cả Bảo Đại, Trần
Trọng Kim, Phạm Khắc Hòe và phần lớn thành viên trong Nội các vẫn còn mơ hồ,
chưa biết rõ lãnh tụ Việt Minh là ai.
Với vai trò đã bí mật nhận với Việt
Minh (thông qua Tôn Quang Phiệt), Phạm Khắc Hòe tiếp tục tìm mọi phương tiện khéo
léo vận động Bảo Đại thoái vị, bằng cách luôn báo cáo với vua về những cuộc
biểu tình của quần chúng đả đảo phát-xít, ủng hộ Việt Minh, về huyền thoại dân
gian “thánh Nguyễn Ái Quốc” ra đời ở đất Nam Đàn… để khuyên nhà vua nên rút
lui. Cuối cùng Hoàng đế đồng ý nói: “Nếu quả người cầm đầu Việt Minh là
‘Thánh Nguyễn Ái Quốc’ thì tôi sẵn sàng thoái vị ngay” (Phạm Khắc Hòe,
sđd., tr. 62). Nghe xong Phạm Khắc Hòe khấp khởi vội vã lo soạn chiếu thoái vị,
và hoàn tất ngay trong đêm 20.8.1945.
Gần trưa ngày 23.8.1945, Bảo Đại
nhận được tối hậu thư của Việt Minh, dưới đóng dấu “Thành bộ Việt Minh tỉnh
Nguyễn Tri Phương” nhưng không có ai ký tên, đòi nhà vua phải trả chính quyền
cho nhân dân và hứa sẽ bảo đảm tính mạng, tài sản cho hoàng gia, hạn cho nhà vua
phải trả lời trước 13 giờ 30 phút ngày 23.8.1945 và cử ông Phạm Khắc Hòe làm
người liên lạc giữa nhà vua và Chính quyền cách mạng.
Theo đề nghị của Phạm Khắc Hòe, một
cuộc họp nội các đã được triệu tập ngay lập tức vào đúng 12 giờ 25 phút cùng
ngày để kịp trả lời Việt Minh đồng thời góp ý kiến cho dự thảo Chiếu thoái vị
do chính ông Hòe khởi thảo. Cuộc họp do vua chủ tọa, có mặt Trần Trọng Kim,
Trần Văn Chương (1898-1986), Trần Đình Nam, Trịnh Đình Thảo, Vũ Văn Hiền, Nguyễn Hữu
Thí, Phạm Khắc Hòe. Mọi người đồng ý chấp nhận các điều kiện do Việt Minh đưa
ra trong tối hậu thư, còn Chiếu thoái vị thì chỉ sửa có mấy chữ “nồi da xáo
thịt” thành “Nam Bắc phân tranh”.
Tờ chiếu lịch sử đó của Hoàng đế
Bảo Đại, vua cuối cùng triều Nguyễn sau 143 năm trị vì đất nước phong kiến mà
hơn một nửa thời gian bị lệ thuộc Pháp, chính thức đề ngày 25.8.1945. Ông chấp
nhận từ bỏ ngôi báu một cách khá mau lẹ một phần vì muốn đặt lợi ích của quốc
dân lên trên, phần khác cũng do bị áp lực từ nhiều phía và cũng chẳng còn cách
nào khác.
Chiều ngày 26.8.1945, trong không
khí buồn tẻ chỉ hiện diện vài người thân cận, vua làm lễ cáo yết Liệt thánh về
việc thoái vị ở Thế miếu là nơi thờ Gia Long và các vua nối tiếp. Các quan văn
võ được thông báo trước nhưng đều không đến dự.
Chiều 30.8.1945, tại cuộc lễ thoái
vị được cử hành long trọng trước Ngọ Môn, Bảo Đại mặc triều phục tuyên độc
chính thức Chiếu thoái vị, lời lẽ chân thực cảm động, với sự có mặt của đại
diện Việt Minh gồm các ông Trần Huy Liệu (Trưởng đoàn), Nguyễn Lương Bằng, Cù
Huy Cận cùng sự chứng kiến của đám đông hàng vạn dân
chúng:
“Vì hạnh phúc của
dân tộc Việt Nam,
Vì
nền độc lập của Việt Nam,
Để
đạt hai mục đích ấy, Trẫm tuyên bố sẵn sàng hi sinh tất cả, và ước mong rằng sự
hi sinh của Trẫm đem lại lợi ích cho Tổ quốc.
…
Chiếu
đà tiến dân chủ đang đẩy mạnh ở miền Bắc nước ta, Trẫm e ngại rằng một sự tranh
chấp giữa miền Bắc với miền Nam khó tránh được, nếu Trẫm đợi sau cuộc trưng cầu
dân ý, để quyết định thoái vị. Trẫm hiểu rằng, nếu có cuộc tranh chấp đó, đưa
cả nước vào sau hỗn loạn đau thương, thì chỉ có lợi cho kẻ xâm lăng.
Trẫm
không thể không ngậm ngùi khi nghĩ đến các tiên đế đã chiến đấu trên bốn trăm
năm để mở mang bờ cõi từ Thuận Hóa đến Hà Tiên. Trẫm không khỏi tiếc hận
là trong hai mươi năm ở ngôi, Trẫm không thể làm gì đem lại lợi ích đáng kể cho
đất nước.
Mặc
dù vậy, và vững mạnh trong sự tin tưởng của mình, Trẫm đã quyết định thoái vị,
và Trẫm trao quyền cho Chính phủ Dân chủ Cộng hòa.
…
Trẫm
yêu cầu tân chính phủ lấy tình huynh đệ đối xử với các đảng phái, các phe nhóm,
các đoàn thể đã chiến đấu cho nền độc lập của đất nước, mặc dù không theo cùng
đường hướng dân chủ của mặt trận, như vậy có thể giúp cho họ được tham gia vào
sự kiến thiết đất nước, và chứng tỏ rằng tân chế độ đã được xây dựng trên tình
đoàn kết dứt khoát của toàn thể nhân dân.
Trẫm
yêu cầu tất cả các đảng phái, các phe nhóm, tất cả các tầng lớp xã hội cũng như
toàn thể hoàng gia phải đoàn kết chặt chẽ để hậu thuẫn vô điều kiện cho Chính
phủ Dân chủ Cộng hòa, hầu củng cố nền độc lập quốc gia.
Riêng
về phần Trẫm, trong hai mươi năm ở ngôi, Trẫm đã trải qua bao nhiêu cay đắng.
Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị. Từ nay Trẫm
lấy làm sung sướng được là dân tự do, trong một nước độc lập. Trẫm không để cho
bất cứ ai được lợi dụng danh nghĩa Trẫm, hay danh nghĩa hoàng gia để gieo rắc
sự chia rẽ trong đồng bào của chúng ta… (chép
theo Con rồng Việt Nam của Bảo Đại, tr. 187-188, có một số câu chữ khác
hơn so với văn bản chép trong Phụ lục hồi ký Một cơn gió bụi của Trần
Trọng Kim).
Đọc xong, vua Bảo Đại trao kiếm vàng và
ấn ngọc cho đại diện Việt Minh là Trần Huy Liệu, biểu thị chấm dứt triều đại
phong kiến cuối cùng ở Việt Nam. Nội các Trần Trọng Kim, mà ba tuần lễ sau cùng
đổi gọi Nội các Lâm thời, coi như cũng chấm dứt nhiệm vụ lịch sử.
Trong hồi ký Con rồng Việt Nam
(Hồi ký chính trị 1913-1987, Nguyễn Phước Tộc xuất bản, 1990), cựu hoàng Bảo
Đại sau này nhớ lại: “Bản tuyên ngôn được đọc trong sự yên lặng hoàn toàn.
Tôi quan sát các khán giả đứng hàng đầu. Tất cả các vẻ mặt đều tỏ vẻ ngạc nhiên
cùng cực. Nam và nữ đều ngẩn ngơ. Bản tuyên ngôn thoái vị của tôi như tiếng sét
đánh xuống ngang đầu họ. Họ lặng người đi. Trong một bầu không khí bực dọc, tôi
trao nhanh ấn tín, quốc bảo của hoàng triều cho Trần Huy Liệu,
mà chính ông ta cũng có cảm tưởng như tự trên mây mà lại. Trong khi tôi hồi
cung, đám đông tan rã, không một tiếng kêu” (tr. 188).
Ngày 2.9.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, chấm dứt chế độ phong kiến, khai sinh Nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa.
Về phần Nội các Trần Trọng Kim, mặc
dù chỉ tồn tại trong thời gian chưa đầy 4 tháng (từ 17.4 đến 7.8.1945,
nếu tính đến 23.8.1945 khi quyết định xong Chiếu thoái vị thì được 4 tháng 6
ngày, tổng cộng 126 ngày, tương đương 1/3 năm) và làm việc trong những điều
kiện vô cùng khó khăn, nhất là khi vẫn bị quân đội Nhật kiềm chế mọi mặt, Nội
các đã tỏ ra năng nổ, nhiều thiện chí và cũng đã làm được một số việc đầy ý
nghĩa, đáng ghi nhận:
- Tháng 6 năm 1945, đặt quốc hiệu là Đế
quốc Việt Nam (bỏ tên Đại Nam,
Annam); tạm duy trì bài quốc thiều "Đăng đàn cung";
đổi mới quốc kỳ,
thay cờ Long tinh bằng cờ quẻ Ly có nền vàng hình chữ nhật, giữa có hình quẻ Ly màu đỏ
thẫm.
- Bộ Tiếp tế tập trung cao độ lo
việc cứu đói nhưng kết quả rất hạn chế vì phương tiện, nhân lực đều do quân Nhật
nắm giữ và nhất là giao thông đường bộ, đường
sắt, đường biển từ Nam ra Bắc đều bị quân Đồng minh cắt đứt.
- Thanh trừng quan tham lại nhũng
với kết quả hạn chế, vì thời gian ít và điều kiện khó khăn trước mắt về nhân sự
chưa cho phép làm mạnh.
- Tha thuế thân cho người dân và
cho những công chức có thu nhập thấp. Thực hiện sự
công bằng về thuế khóa.
- Chủ
trương tăng lương cho tiểu công chức, bỏ các món chi tiêu huy hoàng vô ích.
- Can thiệp với Nhật để từ ngày
9.8.1945 tổng ân xá các tù chính trị, kể cả những người cộng sản đã bị Pháp bắt
giam tại các nhà lao và nhà ngục khổ sai. Chủ trương trừng thanh quan lại và
bài trừ tệ hối lộ.
- Đấu tranh với Nhật đòi lại các
công sở và lấy lại được ba thành phố nhượng địa Hà Nội, Hải
Phòng và Ðà Nẵng kể từ ngày 20.7.1945.
- Ngày 1.8.1945, Đốc lý Hà Nội Trần
Văn Lai cho phá các tượng Pháp ở Hà Nội vốn biểu trưng cho nền thống trị ngoại
bang, như tượng Paul Bert, Jean Dupuis, Đầm Xòe ở Cửa Nam, Đài kỷ niệm Lính Khố
xanh, Khố đỏ.
- Ngày 14.8.1945, tranh thủ lấy lại
Nam Kỳ cho triều đình Huế, thống nhất (về mặt danh nghĩa) đất Nam Kỳ vào đất nước Việt Nam.
- Chủ trương cho phép thành lập các
đảng phái chính trị.
- Về tư pháp, thành lập Ủy ban Soạn
thảo Hiến pháp trên cơ sở thống nhất xứ sở, các quyền tự do chính trị, tôn giáo
và nghiệp đoàn. Đạo luật tổ chức nghiệp đoàn đầu tiên ở Việt Nam là do chính
phủ Trần Trọng Kím soạn thảo và ban hành ngày 5.7.1945.
- Đổi chương trình học tiếng Pháp ở bậc Tiểu học và Trung học sang chương trình tiếng Việt,
do Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ thuật Hoàng Xuân Hãn
chủ trì biên soạn.
- Hành chánh được cải tổ với việc dùng
chữ Việt trong tất cả các giao dịch của
chính phủ ngoại
trừ lãnh vực y tế và các văn thư liên lạc với Pháp hoặc với các công ty người Hoa.
- Bộ trưởng Bộ Thanh niên Phan Anh đã thành lập đoàn Thanh
niên Tiền tuyến, Thanh niên Xã hội. Trường Thanh niên Tiền tuyến đã đào tạo ra nhiều tướng lĩnh, sĩ quan của Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa sau này.
- Trong giai đoạn tồn tại cuối,
nhận thức được trào lưu, tham gia dàn xếp êm và nhanh chóng việc thoái vị của
Bảo Đại để trao quyền lãnh đạo cho chính quyền cách mạng, tránh một cuộc xung
đột đổ máu rất có thể xảy ra nếu có sự kháng cự.
Nhìn chung, xét trên những điều
kiện lịch sử cụ thể, trong vô vàn khó khăn các mặt, Nội các Trần Trọng Kim dưới
sự lãnh đạo đầy thiện chí của vua Bảo Đại đã đạt được một số thành công nhất
định, nhưng tất cả đều dang dở. Một số việc quan trọng về nội trị, ngoại giao đều
rất sáng suốt nhưng chỉ vừa kịp đưa ra chủ trương thì thời cuộc đã chuyển sang hướng khác.
Trong số những thành tích kể trên,
thành tích chói lọi nhất tiếp tục ảnh hưởng tốt đến các giai đoạn chuyển tiếp
và thậm chí đến bây giờ là chương trình cải cách giáo dục tiếng Việt do Bộ
trưởng Giáo dục và Mỹ thuật Hoàng Xuân Hãn (1908-1996) chủ trì biên soạn
(quen gọi tắt Chương trình Hoàng Xuân Hãn), hoàn thành chỉ trong
vòng vài tuần lễ, và được đem ra áp dụng ngay ở miền Trung và
miền Bắc (miền Nam vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình
Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950).
Nếu không đủ nhiệt tâm yêu nước và trình độ vững vàng, trên không có “minh
quân” một lòng ủng hộ, quyết định nhanh, làm sao một chương trình giáo dục quan
trọng như vậy có thể được hoàn thành mau chóng với tốc độ kỷ lục, mà nếu đem so
sánh với cách làm việc luộm thuộm ngày nay, với suốt mấy chục năm chương trình
học vẫn chưa ổn định, chúng ta sẽ thấy có sự khác biệt một trời một vực!
Theo GS Dương Thiệu Tống
(1925-2008), so với các chương trình trung học Việt Nam về sau đó, chương trình
Hoàng Xuân Hãn là một chương trình cải tổ nền trung học Việt Nam sâu rộng nhất,
từ việc thay đổi cấu trúc nền trung học cho đến việc đặt ra những môn học mới,
thay đổi nội dung các môn học cũ, nhưng nó đã được thực hiện trong thời gian
ngắn nhất và với số giáo sư tham gia ít ỏi nhất. Mỗi môn học chỉ có một hoặc
hai người soạn thảo cho tất cả các lớp của bậc trung học từ lớp đệ nhất niên
cho đến lớp đệ tam chuyên khoa.
“Từ khi ra đời cho đến khi giải
tán để nhường vai trò lịch sử cho Mặt trận Việt Minh…, nội
các Trần Trọng Kim chỉ đứng được 4 tháng, nếu không làm được nhiều việc vĩ đại
nhưng ít nhất phải nhận nội các này đã tỏ ra có nhiều thiện chí. Tuy nhiên xét
về năng lực, ta thấy Nội các này chỉ có thể thích hợp cho thời bình, do đó ta
không lấy làm lạ khi thấy nó lùi bước nhanh chóng trước sự tiến triển mau lẹ
của cao trào Cách mạng năm 1945” (Phạm Văn Sơn, Việt sử toàn thư,
Sài Gòn, 1960, tr. 706).
Nội các Trần
Trọng Kim thực tế vẫn nằm dưới sự bảo hộ của quân đội Nhật chiếm đóng Đông
Dương. Chính sách Đại Đông Á, "xây
dựng khu vực thịnh
vượng chung" của Nhật trước sau
vẫn chỉ là một tên gọi
khác cho ách thống
trị mới của quân
phiệt Nhật, và Trần Trọng Kim với tính cách một
học giả chưa lọc lõi chính trị đã có lúc nhẹ dạ đặt niềm tin không đúng chỗ.
Về phần cá nhân Trần Trọng Kim, sau
khi hoàn toàn rời khỏi chức vụ cùng với vua Bảo Đại (23.8.1945), ông tạm ở lại
Huế khoảng hơn ba tháng trong cảnh sinh hoạt buồn tẻ chờ thu xếp điều kiện trở
ra Hà Nội cuối tháng 11.1945. Trong lương tâm thanh thản vì tự cho mình đã làm
hết trách nhiệm, ông luôn tỏ ra ngậm ngùi thân thế, chán bỏ công danh, và như
lời ông nói, “thế là xong một giấc mộng Nam Kha” (sđd., tr. 98), định
bụng già yếu rồi “Không có làm gì nữa và cũng chẳng đi đâu cả, chỉ vui với
mấy quyển sách cổ và mấy người bạn cũ, trò chuyện tiêu khiển. Tưởng thế là yên,
ngờ đâu tình thế phải phiêu lưu lần nữa” (sđd., tr. 100). Tình thế “phiêu
lưu” đó trước nhất là vì cảm thấy “không ở yên”, như lời ông tâm sự với
một bạn vong niên (xem Lãng Nhân, sđd., tr. 87), và phần khác muốn tránh trước
cuộc binh lửa Việt-Pháp dự đoán sắp xảy ra, kết hợp với mục đích phụ “xem
công việc của các nhà cách mạng xưa nay tuyên truyền rầm rĩ, nếu có thật mà làm
được việc gì càng hay, nếu không cũng là một dịp cho ta ra khỏi cái hoàn cảnh
nguy hiểm này” (sđd., tr. 132). Những chi tiết này
cho thấy, Trần Trọng Kim tuy có xu hướng chính cầu an, đã biết ngán ngẫm công
danh nhưng vẫn chưa thật sự “tắt lửa lòng”, mà vẫn còn có ít nhiều dự định
chính trị nhưng chỉ với thái độ cầu âu tiêu cực, được chăng hay chớ.
Thế rồi cuối tháng 5.1946, từ Hà
Nội ông đã tìm đường lưu vong sang Trung Quốc, theo đường bộ Lạng
Sơn, có ý muốn liên lạc lại với Bảo Đại và các nhóm “tòng vong” vì Bảo Đại đã
được cử sang đó từ trước hồi tháng 3.1946 dưới danh nghĩa cố vấn cho Chính phủ
Lâm thời giao hảo với chính quyền Tưởng Giới Thạch, nhưng sau đó đi Hồng Kông
rồi không về nước.
Theo nhận định của Lãng Nhân, “Tôi
biết ông không có ý ‘tòng vong’ để mưu trở lại chính quyền mà chỉ cốt cho trọn
tình nghĩa, và cố vấn cho những người tâm phúc trong Đại Việt như Đặng Văn
Sung, Phan Huy Quát, Nguyễn Hữu Trí… để thực hiện chính nghĩa quốc gia mà Bảo
Đại tượng trưng” (sđd.,tr. 87)
Sau nhiều năm tháng sống thiếu thốn ở Quảng Châu và Hồng Kông, ngày 6.2.1947, ông trở về Sài Gòn
ở tạm nhà luật sư Trịnh Đình Thảo.
Người Pháp cùng cựu hoàng Bảo Đại thu xếp cho ông
trở về Sài Gòn lần này là để thăm dò, vận động thành lập chính phủ mới, nhưng khi về đến, ông nhận ra những lời hứa hẹn của Pháp đều giả dối nên quyết định không làm gì.
Về giai đoạn ở Pháp về, ông có kể
trong tập hồi ký, và ở một chỗ khác, kể rõ hơn cho người em trai vợ mình là Bùi
Nhung nghe: “Tôi trở về nước có nhiệm vụ dọ dẫm xem Pháp có thật tình không,
nghĩa là có cho Việt Nam tự do, độc lập thật sự như trong khối thịnh vượng
chung của Anh không? (Commonwealth), Tôi gặp ông Cao ủy ở Sài Gòn. Sau 1 giờ chuyện trò, tôi biết rõ cái dã tâm của thực dân!
Liên hiệp Pháp chỉ là một thứ cũi chó mạ vàng! Ông Cao ủy, lúc tiễn tôi
ra cửa, có nhã ý muốn nhân danh chánh phủ Pháp giúp tôi một số tiền mở nhà in,
để theo đuổi con đường văn hóa. Tôi cám ơn, không nhận. Cũng tiền của dân Việt
Nam chứ tiền đâu của Pháp! Hồi Nhật đầu hàng Đồng minh, các cố vấn Nhật biếu
tôi một lúc cả 5 chục triệu để làm vốn mở mang văn hóa tôi cũng kiếu, huống hồ
của thực dân. Các ông chánh khách tưởng tôi về nắm ghế Thủ tướng, kéo đến chật
căn nhà… Khổ quá, có ông bám sát suốt ngày đêm… Có một ông, ông Luật sư cậu
biết đó, đêm đến kê ghế bố nằm cạnh giường, nói chuyện cả đêm! Mình mất ngủ,
mệt phờ. Tôi đã thú thật với các ông ấy tôi không làm gì cả, các ông không tin!...”
(sđd., tr. 99-100).
Qua một bức thư mới được phát hiện
và công bố gần đây, gởi cho Hoàng Xuân Hãn, được ông viết từ Sài Gòn đề ngày
8.5. 1947, chúng ta còn biết chắc thêm nhiều sự thật về những hoạt động và quan
điểm chính trị của ông liên quan đến người Pháp, cựu hoàng Bảo Đại và một số
đảng phái quốc gia, vì đây là bức thư ông viết riêng cho người tâm phúc, không
che giấu sự thật: “Tôi xem thư của ông, nhất là đoạn viết bằng chữ nôm, tôi
biết rõ sự tình và tôi đã phiên dịch ra quốc ngữ, gửi sang để Ngài [tức Bảo
Đại] xem…. Cái tình thế nước ta bây giờ, tôi cũng hiểu đại khái như ông… Tôi sở
dĩ về đây là vì Ngài và tôi ở bên ấy, hoang mang chẳng biết rõ gì cả, nhân có
ông Cousseau do ông D’Argenlieu sai sang gặp Ngài và tôi, nói Pháp sẵn lòng đổi
thái độ để cầu hoà bình. Ngài thấy thế bảo tôi về tận nơi xem thái độ người
Pháp có thật không, và nhân tiện xem ý tứ người Việt ta thế nào. Nếu làm được
việc gì ích lợi cho nước và để cho dân đỡ khổ, thì ta cố làm cho trọn nghĩa vụ
của mình, nếu không thì lương tâm ta cũng yên, vì đã cố hết sức mà không làm
được. Tôi về đây hôm 6 tháng hai tây, không gặp ông
D’Argenlieu, vì ông ấy sắp về Pháp. Ông ấy cho người bảo tôi chờ ông ấy sang sẽ
nói chuyện. Tôi có gặp mấy người có chủ nhiệm về việc chính trị, nói chuyện thì
tử tế lắm và đồng ý hết cả. Nhưng xét ra họ nói một đường, làm một nẻo, toàn là
những việc mưu mô lừa dối cả….Tôi xem việc người Pháp làm, không thấy gì là
chân thực. Họ thấy tôi giữ cái thái độ khảng khái không chịu để họ lợi dụng, họ
phao ra rằng tôi nhu nhược và đa nghi không làm được việc. Họ cho những người
Nam thân tín của họ đến nói muốn gặp tôi, tôi từ chối không gặp ai cả….Dù sao,
tôi cũng không ân hận vì việc tôi về đây. Có về đây mới biết rõ sự thực.
Biết rõ sự thực thì cái bụng tôi yên không áy náy như khi ở ngoài kia. Bây giờ
tôi nhất định không làm gì cả. Nếu thời cục yên ổn thì tôi về ngoài Bắc, nếu
không thì xoay xở ở tạm trong này, chờ khi khác sẽ liệu. Còn về phương diện
người mình, thì tôi thấy không có gì đáng vui. Phe nọ đảng kia lăng nhăng chẳng
đâu vào đâu cả. Ai cũng nói vì lòng ái quốc, nhưng cái lòng ái quốc của họ chỉ
ở cửa miệng mà thôi, nhưng kỳ thực là vì địa vị và quyền lợi, thành ra tranh
giành nhau, nghi kỵ nhau rồi lăng mạ lẫn nhau…. Tôi thấy tình thế có nhiều nỗi
khó khăn quá, mà minh thì thân cô thế cô, không làm gì được, cho nên chỉ giữ
cái địa vị bàng quan mà thôi… Tôi vẫn biết việc chống
với Pháp chỉ có V.M. mới làm nổi… Nay V.M. đứng vào cái địa vị chống Pháp, tất
là có cái thanh thế rất mạnh…. Đó là ý kiến riêng của tôi, còn các ông
nghĩ thế nào tôi không biết...” (theo Nguyễn Đức Toàn, Viện nghiên cứu Hán
Nôm).
Đầu tháng 3.1948, ở
tuổi 65, vừa túng thiếu vừa mệt mỏi và bất lực trước thời cuộc, lại bị đám chính khách cơ hội tối ngày bao vây trong căn
nhà ở đậu chật hẹp của người anh vợ, ông quyết định bỏ Sài Gòn qua Nam Vang (Phnom Penh, Campuchia) sống với người con gái,
cũng trong cảnh nghèo túng. Trong thời gian này, ông đã tập hợp các bản thảo nhật ký
của mình viết thành cuốn hồi ký Một cơn gió bụi, mà phần kết thúc là nêu
lên một số nhận xét về những chỗ hay dở của phong trào Việt Minh và khẳng định tấm lòng chân thành của ông đối với dân tộc.
Đây là quyển sách chứa được nhiều sử liệu quý hiếm mà ta không thể tìm thấy bất
kỳ ở đâu trong số những tập “chính sử” hiện đại, rất cần được giới nghiên cứu
sử học quan tâm khảo định kỹ vì có thể còn một số chi tiết chưa chính xác, để
viết lại bộ thông sử sau này, nhất là về những sự kiện lịch sử Việt Nam liên
quan giai đoạn 1945-1949.
Tâm trạng ông vào khoảng thời gian
tạm trú Nam Vang được ghi lại ngay trong đầu sách qua hai câu thơ trích dẫn của
Đái Thúc Luân (732-789) thời Đường: Liêu lạc bi tiền sự/ Chi li tiếu thử
thân (Quạnh hiu buồn nỗi trước kia/ Vẩn vơ chuyện vặt, cười khì tấm
thân). Và trong đoạn tâm sự gần cuối tập hồi ký: “Tôi nay già rồi,
không còn hăng hái làm được việc gì nữa. Tôi chỉ mong được yên ổn, để về nghỉ
ngơi cho trọn tuổi già, ấy là cái sở nguyện chân thực của tôi. Vả trong quãng
đường tôi vừa đi qua, trải bao những cảnh huống đau buồn khổ sở, may như Trời
Phật cứu giúp, tôi duy trì được đến bây giờ, mà không trụy lạc vào đâu cả, thật
là cái phúc lớn vậy” (sđd. tr. 185).
Lãng Nhân kể: “Vốn là người nho
nhã phác thực và chân thành, khi không bị lôi cuốn vào trường chính trị, phải
đối phó với một canh bạc thò lò sáu mặt, không thích ứng với lòng mình, nên mỗi
khi nhàn thoại ông hay mân mê điếu thuốc lá vấn tay, chặc lưỡi một đường triết
lý: Nghĩ cho cùng, ở đời chẳng cái đếch gì ra cái đếch gì…” (sđd., tr.
67).
Ít lâu sau ông trở về Việt Nam, rồi
thuê nhà định cư tại Hà Nội.
Sau khi
do lời mời của Quốc trưởng Bảo Đại về Sài Gòn dự Đại hội
đồng Quốc gia (còn gọi “Quốc dân đại hội”) từ ngày 6.9.1953, được bầu làm Chủ
tịch Chủ tịch đoàn nhưng chỉ hư vị và không thực tế làm gì, ông lên Đà Lạt định
sống an dưỡng cùng với gia đình nhưng chưa được bao lâu thì mất đột ngột tại đây vì bị đứt mạch
máu ngày 2 tháng 12 năm 1953, thọ 71 tuổi,
thi thể được đưa máy bay về Hà Nội an táng, cạnh chùa Láng, .
Theo
cách kể có phần hơi úp mở trong tập hồi ký của Bùi Nhung, em trai vợ ông, cũng
là người rất yêu quý gần gũi ông, thì cái chết đột ngột của Trần Trọng Kim có
khả năng do bàn tay của thực dân cùng bọn a tòng hãm hại, sau một mũi
thuốc chích của ông bác sĩ quen tên Phiếm, Thị trưởng Đà Lạt (sđd., tr.
103-104).
Trả lờiXóađại lý vé máy bay eva tại tphcm
gia ve may bay eva di my
phong ve korean air
đại lý vé máy bay đi mỹ
mua vé máy bay đi canada
Những Chuyến Đi Cuộc Đời
Ngẫu Hứng Du Lịch
Tri Thức Du Lịch