Kể từ khi Luật Tín ngưỡng tôn giáo được ban hành, ngày 1/1/ 2018, báo cáo hàng năm về tự do tôn giáo quốc tế ở Việt Nam, USCIRF đều dành câu từ công kích, xuyên tạc những quy định này ngay từ đầu, với lập luận đều rưa rứa kiểu như “Hiến pháp Việt Nam quy định tất cả mọi người đều có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Pháp luật quy định sự kiểm soát đáng kể của chính quyền đối với các hoạt động tôn giáo và có những quy định mập mờ cho phép hạn chế tự do tôn giáo vì lợi ích an ninh quốc gia và đoàn kết xã hội. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo vẫn duy trì một quy trình đăng ký và công nhận các nhóm tôn giáo gồm nhiều bước” (Báo cáo Tự do tôn giáo quốc tế của USCIRF năm 2022). Vậy Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam có “hạn chế tự do tôn giáo” hay bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng của người dân khồng bị xâm hại và tương thích với pháp luật quốc tế mà bất cứ nhà nước, chính thể nào cũng phải thực hiện?!?
Cần phải khẳng định rằng, tự
do tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những quyền nhân thân cơ bản của con
người. Điều này không chỉ được thể hiện rất rõ ràng trong Công ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị mà còn được quy định cụ thể trong hệ thống luật
pháp của các quốc gia trong đó có Việt Nam.
Tại Điều 18 của
Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được Liên hợp quốc phê chuẩn
ngày 16-12-1966 (Việt Nam đã tham gia Công ước này ngày 24-9-1982), ghi rõ: “1.
Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền tự do này
bao gồm tự do có theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, tự do bày
tỏ tín ngưỡng, tôn giáo một mình hoặc trong tập thể với nhiều người khác, một
cách công khai hoặc thầm kín dưới hình thức thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và
giảng đạo; 2. Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa
chọn một tôn giáo hoặc tín ngưỡng; 3. Quyền tự do bày tỏ tôn giáo, tín ngưỡng
chỉ có thể bị giới hạn bởi những quy định của pháp luật và những giới hạn này
là cần thiết cho việc bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe, đạo đức của
công chúng hoặc những quyền tự do cơ bản của người khác.”
Trên cơ sở Công
ước quốc tế và điều kiện chính trị, văn hóa, xã hội lịch sử truyền thống của
mỗi quốc gia, các nước trên thế giới đều ban hành những quy định pháp lý về vấn
đề tín ngưỡng, tôn giáo. Trên thế giới không có nơi nào tín ngưỡng, tôn giáo
đứng ngoài pháp luật, hoạt động theo kiểu tự do vô tổ chức mà đều có những hạn
chế theo luật pháp quy định vì một nền trật tự an ninh chung, vì sức khỏe hay
đạo đức cộng đồng hoặc vì sự bảo vệ các quyền và tự do của người khác.
Chẳng hạn ở châu
Âu, Cộng hòa Pháp được xem là một trong những quốc gia có nhiều thành tựu về
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, nhưng đây cũng là quốc gia có hệ
thống pháp luật đầy đủ và chi tiết nhất về tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đạo luật
ngày 09-12-1905 của nước này ghi rõ: “Nền Cộng hòa bảo đảm quyền tự do lương
tâm, bảo đảm quyền tự do thực hành các việc thờ phụng với những hạn chế duy
nhất được ban bố… vì lợi ích trật tự công cộng” (Điều I). Tại Điều 25 của Đạo
luật trên cũng ghi: “Các cuộc hội họp để cử hành một việc thờ phụng được điều
hành trong những trụ sở thuộc một hiệp hội tôn giáo… là công cộng. Chúng được
đặt dưới sự giám sát của nhà chức trách vì lợi ích của trật tự công cộng”.
Tương tự ở châu
Á, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là một nước có truyền thống tín ngưỡng, văn hóa
lâu đời. Nghị định 145 ngày 31/01/1994 của nước này quy định: “Các nơi hoạt
động tôn giáo phải đăng ký theo thể thức do Cục Tôn giáo Quốc gia ấn định. Các
nơi đó không thể do người nước ngoài điều khiển. Các nơi thờ tự không được nhận
tiền bạc của các tổ chức và cá nhân từ nước ngoài gửi về. Tiền bạc do người
nước ngoài tặng hoặc dâng cúng phải được tiếp nhận theo luật pháp quốc gia…
Nghị định 144 ngày 31/01/1994 của Trung Quốc cũng quy định: “Cấm người ngoại
quốc không được thành lập các tổ chức tôn giáo và các cơ cấu phụ thuộc tôn
giáo… không được hoạt động truyền đạo trong nhân dân trừ phi được phép của
chính quyền. Cấm người nước ngoài nhập khẩu vào Trung Quốc các sách, báo và tài
liệu tôn giáo. Các tài liệu khác như sách tôn giáo, băng video, cát-sét tôn
giáo thì được phép mang theo và chỉ sử dụng riêng cho bản thân”.
Còn ở Việt Nam,
sau khi cách mạng Tháng Tám thành công, trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng
Chính phủ (9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh chính sách “tín ngưỡng tự
do và Lương, Giáo đoàn kết”. Hiến pháp đầu tiên năm 1946 cũng đã nêu rõ: “Mọi
công dân có quyền tự do tín ngưỡng”. Đến bản Hiến pháp năm 1959, quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo tiếp tục được tái khẳng định và mở rộng hơn, trong đó quy
định: “Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quyền tự do tín ngưỡng, theo
hoặc không theo một tôn giáo nào” (Điều 26).
Sau khi đất nước
thống nhất, Hiến pháp năm 1980 đã ghi: “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng,
theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Không ai được lợi dụng tôn giáo để làm
trái pháp luật và chính sách của Nhà nước” (Điều 80). Hiến pháp năm 1992 khẳng
định: “Công dân Việt Nam có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không
theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi
thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm
phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái
pháp luật và chính sách của Nhà nước” (Điều 70).
Bước vào thời kỳ
đẩy CNH-HĐH và hội nhập quốc tế, Hiến pháp 2013 được Quốc hội thông qua ngày
28-11-2013, hiến định một cách toàn diện hơn các quyền chính trị, dân sự của
người dân; trong đó quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được thể hiện khá toàn
diện và đầy đủ, đảm bảo dân chủ, tôn trọng và tạo điều kiện tốt nhất cho mọi
người được thực hành tín ngưỡng và tôn giáo của mình. Điều 24 Hiến pháp 2013
nêu rõ: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo
một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và
bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Không ai được xâm phạm tự do tín
ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
Hệ thống các văn
bản pháp luật, pháp lệnh, chỉ thị về tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam thường
xuyên được chú trọng xây dựng và hoàn thiện nhằm cụ thể hóa các quy định của
Hiến pháp và thể chế hóa chủ trương, chính sách của Nhà nước về tôn trọng và
bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, phù hợp với với các văn bản pháp lý
quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia. Có thể khẳng định rằng pháp
luật Việt Nam hiện nay hoàn toàn phù hợp với những chuẩn mực quốc tế có liên
quan đến lĩnh vực này. Chính điều đó đã đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của công dân phù hợp với Công ước quốc tế và ngang tầm với luật pháp của
nhiều nước có nền pháp chế lâu đời. Nhà nước Việt Nam không những tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo mà còn giúp đỡ nhân dân thực hiện quyền lợi
ấy. Đồng thời cũng như mọi quốc gia trên thế giới pháp luật Việt Nam sẽ trừng
trị nghiêm khắc những kẻ mượn danh nghĩa tôn giáo để phá hoại hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ, tuyên truyền chiến tranh, phá hoại đoàn kết, ngăn trở
tín đồ làm nghĩa vụ công dân, xâm phạm đến tự do tín ngưỡng và tự do tư tưởng
của người khác, hoặc làm những việc khác trái pháp luật.
Nhà nước đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; bảo hộ cơ sở vật chất như chùa, nhà thờ,
thánh đường, thánh thất, điện, đền, trụ sở của tổ chức tôn giáo, trường lớp tôn
giáo; kinh bổn và các đồ dùng thờ cúng của tín ngưỡng, tôn giáo. Nhà nước ta
vừa nghiêm cấm việc kỳ thị hoặc xúc phạm người có tín ngưỡng, tôn giáo; đồng
thời cũng nghiêm cấm việc lợi dụng chính sách tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn
giáo hoặc lạm dụng tôn giáo để làm trái pháp luật. Nếu những hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo vi phạm nghiêm trọng pháp luật như gây ảnh hưởng đến an ninh
quốc gia, đến trật tự công cộng, ảnh hưởng đến sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân
tộc, đến truyền thống văn hóa dân tộc… có thể bị đình chỉ. Quy định như vậy
chính là đảm bảo cho những hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo được lành mạnh, phù
hợp với truyền thống văn hóa dân tộc, đáp ứng những nhu cầu chính đáng của quần
chúng nhân dân, không bị các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trái với thuần
phong, mỹ tục làm ảnh hưởng đến đời sống tâm linh, sức khỏe, nhân phẩm, tiền
bạc của nhân dân…chứ hoàn toàn không phải chỉ để “phục vụ cho sự cai trị của
đảng cộng sản…” như giọng điệu của USCIRF và các thế lực thù địch, phản động
từng xuyên tạc, rêu rao./
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét