Cứ dịp đầu mỗi năm, như thường lệ, Bộ Ngoại giao Mỹ lại lặp
lại “điệp khúc” có tên gọi là “báo cáo nhân quyền”, đánh giá về tình hình nhân
quyền tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có Việt Nam. Đây được xem là
sản phẩm phát hành đều đặn hang năm trong gần 5 thập kỷ qua, Bộ Ngoại giao Mỹ
đều đặn công bố các báo cáo. Ngày 22/4/2024, cơ quan này lại phát hành một báo cáo dài 59 trang,
được chia thành 7 phần, đánh giá tình hình nhân quyền năm 2023 của Việt Nam. Thoạt nhìn tưởng công phu, nhưng
đọc vào mới thấy, nó được chạy theo mô tuýp có sẵn, sản phẩm phản ánh một định
kiến đóng khung về Việt Nam dưới góc nhìn thời chiến tranh lạnh, vô cùng phiến
diện, thiếu khách quan, vô số thông tin sai sự thật.
Có thể nhìn tổng thể toàn bộ báo cáo, cho thấy:
Thứ nhất, mở đầu báo cáo là câu “Không có thay đổi đáng kể
về tình hình nhân quyền ở Việt Nam trong năm qua”, báo hiệu rằng người đọc sẽ thấy
Việt Nam chẳng có tiến bộ gì về nhân quyền, chẳng có nỗ lực nào đáng ghi nhận
so với các năm trước đó. Chỉ bằng “định kiến” đã cho thấy, người phát hành báo
cáo không muốn tiếp cận thông tin xác đáng ngoài “định kiến” đã được “sắp sẵn”
trong đầu.
Thứ hai, trong phần 1, báo cáo này thống kê rằng tính đến
31/10/2023, Việt Nam đã bắt giữ 25 cá nhân và kết án 23 người đang thực hiện
các quyền con người được quốc tế công nhận như quyền tự do ngôn luận, tự do hội
họp ôn hòa và lập hội. Những cá nhân này được Mỹ “định sẵn” là “ tù nhân lương
tâm”, bất chấp họ vi phạm pháp luật gì, thậm chí trốn thuế hay tham gia vào các
tổ chức phản động lưu vong chống phá đất nước
như Bùi Tuấn Lâm, Ngụy Thị Khanh hay Châu Văn Khảm… bị bắt giam và xét
xử vì vi phạm pháp luật Việt Nam, song những người này lại được báo cáo “tẩy
trắng” tội danh, gắn thêm yếu tố chính trị để đôn họ lên làm “tù nhân chính
trị” hay “tù nhân lương tâm”. Đây rõ rang là sự đánh tráo khái niệm một cách lộ
liễu để tôn vinh những đối tượng vi phạm pháp luật Việt Nam và cho họ núp dưới
cái bóng “tù nhân chính trị” hay khoác cho họ cái áo “tù nhân lương tâm”.
Một điệp khúc nữa xuất hiện trong phần 2 (Tôn trọng tự do
dân sự) cáo buộc Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet. Thực tế, theo Bộ
Thông tin và Truyền thông thống kê rằng, tính đến tháng 9/2022, Việt Nam có
khoảng 70 triệu người dùng internet; gần 76 triệu người sử dụng mạng xã hội,
tăng gần 10 triệu người trong vòng 1 năm (tương đương 73,7% dân số). Nhờ đó,
Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên toàn thế
giới, đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Người
dùng Việt Nam dành trung bình tới gần 7 giờ mỗi ngày để tham gia các hoạt động
liên quan tới internet. Tỷ lệ người dùng sử dụng internet hàng ngày lên tới
94%. Internet đã có mặt ở mọi nơi, từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng đến
miền núi, biên giới, hải đảo. Nếu bị hạn chế nghiêm trọng như báo cáo mô tả thì
tại sao internet ở Việt Nam lại có thể phát triển với tốc độ nhanh chóng như
vậy?
Trên đây
chỉ là hai trong vô số các điệp khúc mà các báo cáo về tình hình nhân quyền ở
Việt Nam lặp đi lặp lại sau mỗi năm.
Khi xem báo cáo của Mỹ về tình hình nhân quyền năm 2023 ở
một số quốc gia có cùng hệ tư tưởng với Việt Nam, ví dụ như Cuba, Triều Tiên
hay Venezuela, ta có thể thấy sự giống nhau đến kỳ lạ, từ câu mở đầu báo cáo
cho tới những nhận xét mang tính quy chụp.
Nếu Bộ
Ngoại giao Hoa Kỳ tiếp tục dựa trên những nguồn tin không chính thống, dựa trên
những cá nhân và tổ chức thiếu thiện chí, thì dự báo rằng báo cáo năm 2024, năm
2025 và về sau nữa, câu mở đầu vẫn sẽ là điệp khúc “không có thay đổi đáng kể”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét