Cứ hàng năm, Bộ Ngoại giao Mỹ lại đưa
ra các đánh giá về “tự do tôn giáo” đối
với các nước trên thế giới trên cơ sở báo cáo của USCIRF – một tổ chức phi
Chính phủ được Mỹ tài trợ. Trong các báo cáo này, Mỹ tự cho mình đóng vai trò
“Cảnh sát quốc tế” để giám sát hoạt động của các nước về nhân quyền, tự do tôn
giáo. Cuối năm 2022, Bộ Ngoại giao Mỹ lại dựa trên thông tin của USCIRF và các
báo cáo của các tổ chức thù địch với Việt Nam, đưa Việt Nam vào cái gọi là “Danh sách theo
dõi đặc biệt về tự do tôn giáo”. Điều này gây nên những phản ứng của dư luận xã
hội Việt Nam về sự thiếu khách quan trong nhìn nhận, đánh giá thực chất vấn đề
tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.
Theo cáo buộc của Bộ Ngoại giao Mỹ, Việt Nam cùng 3 nước khác là
Algeria, Cộng hòa Trung Phi, Comoros thuộc cái gọi là “Danh sách giám sát đặc biệt
về tự do tôn giáo”. Lý do phía Mỹ đưa ra là Việt Nam trong năm 2022 đã “can dự
vào hay dung thứ cho những vi phạm nghiêm trọng quyền tự do tôn giáo”. Trước
những cáo buộc phi lý này, ngày 15/12/2022, Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm
Thu Hằng khẳng định: “Việc Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi đặc biệt về
tự do tôn giáo là dựa trên những đánh giá thiếu khách quan cũng như các thông
tin không chính xác về tình hình tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam”.
Lý do vì sao Bộ Ngoại giao Mỹ lại đưa ra quyết định sai trái
này?
Thứ nhất, việc Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách theo
dõi đặc biệt về tự do tôn giáo là dựa trên những đánh giá thiếu khách quan,
công bằng. Bộ Ngoại giao Mỹ đơn phương đưa ra danh sách để đánh giá một quốc
gia có chủ quyền, độc lập như Việt Nam là đi ngược lại quy định Hiến chương của
Liên Hợp Quốc (LHQ) năm 1946. Mặt khác, cáo buộc này đã phủ nhận những nỗ lực
của Việt Nam khi tham gia vào “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị năm 1966” mà Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982 với điều 18 cam kết về quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín
ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín
ngưỡng do mình lựa chọn, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc
trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các hình
thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng” (khoản 1, Điều 18
Công ước năm 1966).
Thực tế tại Việt Nam, tình hình tự do tôn giáo được khẳng định
rõ trong Hiến pháp, pháp luật và được tôn trọng, bảo đảm trên thực tế. Nhiều
năm qua, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, trong đó có tín đồ, chức
sắc tôn giáo được nâng cao, đã có những bước chuyển biến rất rõ nét, được cộng
đồng quốc tế ghi nhận. Đặc biệt với việc Việt Nam 2 lần trúng cử vào Hội đồng
Nhân quyền LHQ (nhiệm kỳ 2014-2016 và nhiệm kỳ 2023-2025) với số phiếu bầu cao
cho thấy sự tín nhiệm của các nước trên thế giới với cách nhìn nhận đánh giá
đúng đắn, công tâm về tiến trình bảo đảm nhân quyền nói chung và quyền tự do
tôn giáo ở Việt Nam nói riêng.
Ngoài ra, những thành tựu gần đây về tự do tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được bạn bè quốc tế ghi nhận như tổ chức thành công
3 lần Đại lễ VESAK LHQ các năm 2008, 2014 và năm 2019; Việt Nam đã cùng với
Giáo hội Công giáo hoàn vũ (Vatican) tổ chức 9 vòng đối thoại thường niên để
tiến tới xây dựng quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam - Vatican phục vụ lợi ích
giữa giáo hội, giáo dân và dân tộc Việt Nam. Đến nay, số lượng các tổ chức tôn
giáo được Nhà nước công nhận là 16 tôn giáo, 43 tổ chức đăng ký hoạt động tôn
giáo, nhiều tổ chức tôn giáo mới hình thành đều được các cơ quan, ban, ngành
chức năng hướng dẫn tỉ mỉ theo quy định Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2106 đảm
bảo tính thống nhất, ổn định và tuân thủ quy định của luật pháp Việt Nam.
Thứ hai, cáo buộc của Bộ Ngoại giao Mỹ dựa
trên những thông tin không chính xác về tình hình tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở
Việt Nam. Bộ Ngoại giao Mỹ thường cử các phái đoàn ngoại giao vào Việt Nam để
theo dõi, quan sát về tình hình tự do tôn giáo, điều này phù hợp với tinh thần
đối thoại, hợp tác lẫn nhau giữa Việt Nam và Mỹ. Tính từ năm 2006 đến nay, phía
Mỹ hằng năm thường xuyên cử các phái đoàn hỗn hợp của Bộ Ngoại giao, Quốc hội
Mỹ, tổ chức phi chính phủ trực thuộc các cơ quan, ban, ngành của Mỹ đến thăm,
tiếp xúc làm việc với các cá nhân, chức sắc, tín đồ và tham dự các hội thảo,
hội luận, tọa đàm do chính quyền Việt Nam tổ chức để làm rõ hơn quy cách quản
lý nhà nước đối với lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam.
Tuy nhiên, Mỹ thường cử phái đoàn đến thăm
gặp, tiếp xúc với cá nhân là chức sắc, tín đồ tôn giáo có những hoạt động vi
phạm pháp luật hoặc những hội nhóm chưa đủ điều kiện công nhận về tổ chức tôn
giáo theo quy định pháp luật. Đơn cử vào tháng 5 và tháng 10/2022, Bộ Ngoại
giao Mỹ đã cử phái đoàn vào Việt Nam để khảo sát tình hình tự do tôn giáo chỉ
tiếp xúc với các hội nhóm tôn giáo chưa được công nhận, thường xuyên vi phạm
pháp luật như “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất”, “Pháp luân công”, “Tin
lành Đấng Christ các dân tộc Việt Nam”, “nhóm Cao Đài, Hòa Hảo độc lập”, “tổ
chức bất hợp pháp Dương Văn Mình”… Họ lên tiếng bênh vực những cá nhân vi phạm
pháp luật như đối tượng Nguyễn Năng Tĩnh, Lê Đình Lượng, Hồ Đức Hòa… trong Công
giáo; đối tượng Nguyễn Trung Tôn, Y Hinnie, A Ga, A Đảo… trong đạo Tin lành;
đối tượng Thích Không Tánh, Thích Tuệ Sỹ trong “Phật giáo Việt Nam thống nhất”.
Thậm chí, những kẻ cố tình lợi dụng danh nghĩa tín ngưỡng, tôn giáo như đối
tượng Lê Tùng Vân tại “Thiền am bên bờ vũ trụ” (còn gọi là Tịnh thất Bồng Lai),
tỉnh Long An cũng được phía Mỹ liệt kê vào danh sách cần “quan tâm, bảo vệ”.
Chính từ thu nhận bởi những tiếng nói của các
cá nhân, tín đồ vi phạm pháp luật như trên nên phía Bộ Ngoại giao Mỹ đã vin vào
đó để quy kết phía Việt Nam đang “đàn áp tự do tôn giáo” và cho rằng, việc xử
lý những đối tượng vi phạm pháp luật, phạm tội là “xử lý và đàn áp tôn giáo”.
Điều này thể hiện cách nhìn nhận thiếu khách quan và áp đặt tiêu chuẩn tự do
tôn giáo của Mỹ đối với Việt Nam.
Thứ ba, sự phát triển lớn mạnh của các tổ chức
tôn giáo ở trong nước và liên kết quan hệ quốc tế trong tôn giáo là minh chứng
cho thấy tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đang từng bước hội nhập sâu vào thế
giới. Định hướng phát triển của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam có thể thấy rõ
thông qua nội dung Hiến chương, điều lệ, quy định của tôn giáo luôn bám sát yêu
cầu phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế. Chẳng hạn, Phật giáo luôn
kiên định con đường “Đạo pháp dân tộc và chủ nghĩa xã hội”; Công giáo tự hào
với quan điểm “sống phúc âm trong lòng dân tộc”; đạo Tin lành với Hiến chương
“phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc”; đạo Cao Đài với khẩu hiệu “nước vinh -
đạo sáng”… đã khơi dậy truyền thống gắn kết giữa tín ngưỡng, tôn giáo với tinh
thần tự lực, tự cường, độc lập dân tộc.
Mặt khác, trong xu thế mở cửa hội nhập hiện
nay, nhiều tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đã vươn mình, khẳng định sự lớn mạnh
bằng việc tổ chức các sự kiện hành hương, đại lễ, lễ trọng thu hút sự quan tâm
của dư luận quốc tế. Cụ thể: Đại lễ VESAK Phật giáo LHQ năm 2019 diễn ra tại
chùa Tam Chúc, Hà Nam đã có hơn 500 phái đoàn quốc tế đến tham dự; lễ hành
hương tại La Vang (Quảng Trị), Sở Kiện (Hà Nam) của Công giáo Việt Nam đã thu
hút sự tham gia của hàng trăm tổ chức Công giáo trên thế giới đến hành hương,
chiêm bái. Những điều này thể hiện rõ tầm ảnh hưởng của các tổ chức tôn giáo
Việt Nam đối với sự phát triển kinh tế, xã hội trong nước; đồng thời xây dựng
hình ảnh một đất nước Việt Nam có đầy đủ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.
Thật tiếc khi Bộ Ngoại giao Myx đưa phán xét
một chiều trong khi Việt Nam và Mỹ đã xây dựng được cơ chế “Đối thoại Nhân
quyền thường niên Hoa Kỳ - Việt Nam” hàng năm nhằm trao đổi, đối thoại giải
quyết những vướng mắc, bất đồng xung quanh vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo.
Năm 2022, hai nước đã tổ chức cuộc họp Đối thoại nhân quyền tại Mỹ thu được kết
quả thành công tốt đẹp, mở ra triển vọng mới về cải thiện nhân quyền tích cực ở
Việt Nam trong thời gian tới.
Thế nhưng, Bộ Ngoại giao Mỹ đơn phương đưa
Việt Nam vào “Danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo” năm 2022 đã phủ
nhận những nỗ lực của Chính phủ hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ trong tiến trình tạo
niềm tin, củng cố quan hệ ngoại giao.
Những cáo buộc của phía Mỹ khi đưa Việt Nam
vào “danh sách cần giám sát đặc biệt về tự do tôn giáo” thực sự chưa thể hiện
góc độ tiếp cận tích cực, thiếu căn cứ pháp lý, đi ngược lại những cam kết mà
phía Mỹ và Việt Nam đã ký kết, thỏa thuận. Hi vọng rằng trong thời gian tới,
phía Bộ Ngoại giao Mỹ sẽ có những đánh giá khách quan, cụ thể, sâu sát và vì
lợi ích của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam để đưa ra những đánh giá, quyết
định hữu ích cho quan hệ giữa hai quốc gia, dân tộc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét