Chủ Nhật, 16 tháng 7, 2023

Nhận diện tác động của biến đổi khí hậu đến bình đẳng giới và vận động hợp tác quốc tế các diễn đàn nhân quyền

 

Tại Khóa họp thường kỳ lần thứ 53 của Hội đồng nhân quyền LHQ, Việt Nam cùng Bangladesh và Philippines soạn thảo, đề xuất và thành công thông qua Nghị quyết về biến đổi khí hậu (BĐKH) và quyền con người, trong đó nêu bật ảnh hưởng tiêu cực của BĐKH đối với sinh kế và quyền con người, nhấn mạnh yêu cầu hợp tác quốc tế để khắc phục những ảnh hưởng này. Đây là Nghị quyết được Việt Nam, Bangladesh và Philippines giới thiệu hằng năm kể từ năm 2014, để Hội đồng Nhân quyền xem xét, thông qua với trọng tâm mỗi năm tập trung vào từng chủ đề cụ thể (như quyền trẻ em, quyền sức khỏe, quyền của người di cư, quyền phụ nữ… trong bối cảnh biến đổi khí hậu).



Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất với biến đổi khí hậu. IPCC cho rằng, khi mực nước biển dâng lên 100cm, diện tích đất bị mất đi của Việt Nam sẽ lên tới 40.000km2, chiếm 12,1% tổng diện tích đất hiện có, kéo theo hệ quả khiến khoảng 17,1 triệu người sẽ mất đi nơi sinh sống. Biến đổi khí hậu là nhân tố chính gây ra bão, lũ, ngập lụt, lũ quét, sạt lở, chiếm 87 - 91% số lượng thiên tai, ảnh hưởng đến 70% dân số, gây thiệt hại khoảng 1 - 1,5% GDP, đe dọa nghiêm trọng tới việc thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo và các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong giai đoạn 2011 - 2020, khí hậu cực đoan đã gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế với tổng thiệt hại lên tới khoảng 10 tỷ USD.

Liên quan đến quyền con người, một trong số tác động của BĐKH là ảnh hưởng nghiêm trọng đến bình đẳng giới.

Cả nam và nữ giới đều chịu tác động bất lợi của biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, xét về năng lực ứng phó theo giới, nữ giới là nhóm có xu hướng dễ bị tổn thương, chịu nhiều tác động của biến đổi khí hậu và các rủi ro thiên tai hơn do các yếu tố về sức khỏe, khả năng tiếp cận thông tin, hạn chế trong tham gia vào quá trình ra quyết định tại cộng đồng. Hiểm họa tác động lên phụ nữ và nam giới không đồng đều như nhau do họ các đặc điểm và mối quan hệ kinh tế, văn hóa và xã hội khác nhau. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng phụ nữ thường bị ảnh hưởng nặng nề hơn từ các loại hiểm họa so với nam giới. Những tác động khác nhau đó không hoàn toàn do sự khác biệt của phụ nữ và nam giới về sinh học, thể chất hay mức độ tiếp xúc với hiểm họa mà còn do tình trạng dễ bị tổn thương mang tính xã hội bắt nguồn từ các vai trò xã hội khác nhau cũng như các mô hình phân biệt giới hiện tại. Trong mỗi vùng, nhóm người nghèo, dân tộc thiểu số, những người có thu nhập phụ thuộc vào khí hậu, người già, phụ nữ, trẻ em, người bị bệnh tật được xác định là nhóm có mức tổn thương cao nhất do BĐKH. Nhóm phụ nữ dân tộc thiểu số có mức độ tổn thương cao trước tác động bất lợi của BĐKH do họ bị hạn chế hơn về khả năng tiếp cận giáo dục và ít có cơ hội tham gia các công việc phi nông nghiệp. 

Phụ nữ chiếm 50,7% tổng dân số Việt Nam, trong đó tỷ lệ phụ nữ ở thành thị và nông thôn lần lượt là 34,5% và 65,5%. Lao động nữ trong ngành nông nghiệp chiếm 63%, nhiều hơn so với nam giới (57%). Ở nông thôn, đa phần phụ nữ gắn bó với hoạt động sản xuất nông nghiệp bao gồm trồng trọt, chăn nuôi và công việc sau thu hoạch. Do đó khả năng bị tổn thương của lao động nữ cũng cao hơn nam giới khi ngành nông nghiệp là một trong những ngành chịu tác động bất lợi nhất của BĐKH.S ự phân công lao động theo giới trong từng lĩnh vực và trách nhiệm mà phụ nữ phải đảm nhận thêm do các chuẩn mực giới thường hạn chế sự tham gia tích cực của họ vào việc ra quyết định trong và ngoài phạm vi hộ gia đình. Phụ nữ ở các vùng nông thôn được Chính phủ tạo điều kiện tiếp cận tín dụng ưu đãi nhưng hiện không có thông tin nêu bật mối liên hệ của chương trình này với tính dễ bị tổn thương do BĐKH hoặc mức độ chịu rủi ro khí hậu của phụ nữ. Ở nông thôn, phụ nữ cần tiếp cận với công nghệ mới và đa dạng hóa sinh kế để chủ động ứng phó những tác động của BĐKH.

Báo cáo mới đây của Bộ TN&NT cho thấy, hiện tượng thời tiết cực đoan gia tăng làm tăng tác động bất lợi đến đời sống kinh tế của gia đình, giảm thu nhập, tăng đói nghèo, gây khó khăn cho sinh kế của người dân góp phần gia tăng tỷ lệ di cư. Số lượng phụ nữ di cư khỏi nơi sinh sống từ khu vực nông thôn, miền núi ra các thành phố, đô thị, khu công nghiệp ngày càng tăng và cao hơn nhiều so với số lượng nam giới di cư. Trong bối cảnh di cư và xa gia đình, phụ nữ phải bươn chải, đối mặt với nhiều loại rủi ro, khó khăn, thách thức lớn hơn trong cuộc sống. Trong các nhóm lao động nữ, phụ nữ dân tộc thiểu số có mức độ rủi ro cao hơn trước BĐKH do khả năng tiếp cận với giáo dục hạn chế và không có khả năng rời khỏi cộng đồng, thiếu quyền ra quyết định và trình độ học vấn thường thấp hơn nam giới.

Trong thiên tai và BĐKH, nếu xác định được nguyên nhân dẫn tới tình trạng dễ bị tổn thương của phụ nữ và nam giới thì việc tìm ra các biện pháp giảm nhẹ tình trạng dễ bị tổn thương của từng giới sẽ giúp cho họ giảm nhẹ hoặc phòng tránh được những rủi ro của thiên tai. Trong Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến năm 2050 có nhiều nhóm nhiệm vụ và giải pháp quan trọng. Trong đó có việc thực hiện tăng cường các giải pháp cung cấp nước sạch cho khu vực nông thôn, miền núi, ven biển đặc biệt là những vùng chịu tác động của bão, lũ, hạn hán, xâm nhập mặn. Phát triển mạng lưới y tế, chăm sóc sức khỏe, đáp ứng yêu cầu về phòng chống dịch bệnh và các bệnh mới phát sinh do BĐKH. Bảo đảm điều kiện vệ sinh môi trường; đầu tư phát triển công nghệ, trang thiết bị trong dự phòng và điều trị các bệnh gia tăng do BĐKH. Xây dựng và nhân rộng các mô hình của ngành y tế và sức khỏe cộng đồng nhằm nâng cao khả năng chống chịu của cộng đồng, thích ứng với BĐKH. Từ nay đến năm 2030, tập trung tăng cường hệ thống cơ sở hạ tầng cấp nước và năng lực cung cấp nước sạch cho dân cư; phát triển mạng lưới y tế, chăm sóc sức khỏe, phòng chống dịch bệnh, ưu tiên các đối tượng dễ bị tổn thương, các vùng dân tộc ít người; tăng cường hệ thống giám sát và cảnh báo sớm các tác động của BĐKH đến sức khỏe. Bảo đảm an sinh xã hội và bình đẳng giới: Phát triển các mô hình sinh kế bền vững, chú trọng đào tạo, chuyển đổi nghề và hỗ trợ công nghệ, tiếp cận các nguồn vốn cho người dân ở những vùng chịu nhiều rủi ro, dễ bị tổn thương trước tác động của BĐKH. Nâng cao nhận thức, kiến thức, năng lực quản lý rủi ro thiên tai và thích ứng với BĐKH cho cán bộ, hội viên phụ nữ, thanh thiếu niên, người dân, đặc biệt ở vùng có nguy cơ cao về thiên tai. Từ nay đến năm 2030, tăng cường vai trò, năng lực và sự tham gia của phụ nữ và thanh thiếu niên trong hoạt động thích ứng với BĐKH và quản lý rủi ro thiên tai; đẩy mạnh các phong trào, hoạt động nâng cao nhận thức, kiến thức cho thanh thiếu niên về BĐKH và các giải pháp trong phòng chống thiên tai, thích ứng với BĐKH.

Trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã kịp thời thể chế hóa, ban hành một số luật, văn bản quan trọng để thúc đẩy, ứng phó với biến đổi khí hậu và nhất quán đẩy mạnh thực hiện chủ trương từ “tham gia” thành “chủ động, tích cực tham gia” hợp tác quốc tế trong ứng phó, thích ứng với biến đổi khí hậu tại nhiều thể chế đa phương, quốc tế, khu vực. Không chỉ tham gia với tư cách quốc gia thành viên, mà Việt Nam còn chủ động đề xuất nhiều sáng kiến, cơ chế, phương thức hợp tác hiệu quả, góp phần quan trọng thu hút nguồn lực bên ngoài trong ứng phó với biến đổi khí hậu, nâng cao hình ảnh và vị thế đất nước, nhận được sự đánh giá cao của cộng đồng quốc tế. Trong hợp tác đa phương, Việt Nam đã: 1- Ký kết và sớm phê chuẩn nhiều thỏa thuận lớn về biến đổi khí hậu, như Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) năm 1992, Nghị định thư Ky-ô-tô năm 1998, Thỏa thuận Pa-ri năm 2016...; 2- Tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế lớn về biến đổi khí hậu, như Diễn đàn biến đổi khí hậu Á - Âu năm 2011 hay phiên Đối thoại cấp cao “Việt Nam chung tay cùng các đối tác quốc tế ứng phó với các thách thức của biến đổi khí hậu tại đồng bằng sông Cửu Long” năm 2015...; 3- Đóng góp tích cực thúc đẩy các sáng kiến trong khuôn khổ Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP). Tại các Hội nghị COP lần thứ 26 và 27, Việt Nam đã cam kết đưa mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Trong hợp tác song phương, Việt Nam chủ động, tích cực đẩy mạnh hợp tác, đối thoại với các quốc gia phát triển, nhận được nguồn vốn hỗ trợ lớn thông qua các tổ chức quốc tế, như Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Cơ quan Phát triển Pháp (AFD), Ngân hàng Thế giới (WB),... Báo cáo về đầu tư và chi tiêu công cho biến đổi khí hậu tại Việt Nam năm 2022 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ủy ban Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) cho thấy, trong giai đoạn từ năm 2010 - 2019, Việt Nam đã nhận được khoảng 600 dự án quốc tế hỗ trợ ứng phó, thích ứng với biến đổi khí hậu có tổng số vốn ước tính đạt 18,5 tỷ USD. Trong đó, tổng số nguồn vốn viện trợ không hoàn lại đạt khoảng 1,1 tỷ USD, còn lại là vay ưu đãi. Tháng 12-2022, Việt Nam đã nhận được cam kết hỗ trợ 15,5 tỷ USD từ Anh, Mỹ, các nước EU hỗ trợ chuyển đổi năng lượng hóa thạch sang năng lượng tái tạo, giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Nhìn nhận tác động, hiểm họa này, xuất phát từ chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lý, cả hệ thống chính trị của Việt Nam đã và đang nỗ lực tăng cường hợp tác quốc tế, đa dạng hóa quan hệ với các đối tác nhằm huy động nguồn viện trợ, hỗ trợ tài chính ưu đãi, và chủ động hợp tác với các nước, nhất là các nước phát triển, như Mỹ, Pháp, Đức, EU,... vừa góp phần tranh thủ sự quan tâm của các nước trong nỗ lực thúc đẩy ứng phó với biến đổi khí hậu trên toàn cầu, vừa huy động được nguồn vốn viện trợ ưu đãi, bảo đảm nguồn lực tài chính đầu tư, giảm áp lực vốn khi nguồn lực của đất nước còn hạn chế.

Việc trở thành Thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tranh thủ diễn đàn này lan tỏa tiếng nói tích cực trong việc thúc đẩy hợp tác quốc tế chống BĐKH nhằm bảo đảm quyền con người, đặc biệt liên quan đến vấn đề bình đẳng giới, phụ nữ, trẻ em, người DTTS.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét