Tại Khóa họp thường kỳ lần thứ 53 của Hội đồng nhân quyền LHQ, Việt Nam
cùng Bangladesh và Philippines soạn thảo, đề xuất và thành công thông qua Nghị
quyết về biến đổi khí hậu (BĐKH) và quyền con người, trong đó nêu bật ảnh hưởng
tiêu cực của BĐKH đối với sinh kế và quyền con người, nhấn mạnh yêu cầu hợp tác
quốc tế để khắc phục những ảnh hưởng này. Đây là Nghị quyết được Việt Nam,
Bangladesh và Philippines giới thiệu hằng năm kể từ năm 2014, để Hội đồng Nhân
quyền xem xét, thông qua với trọng tâm mỗi năm tập trung vào từng chủ đề cụ thể
(như quyền trẻ em, quyền sức khỏe, quyền của người di cư, quyền phụ nữ… trong bối
cảnh biến đổi khí hậu).
Việt
Nam được đánh giá là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất với biến
đổi khí hậu. IPCC cho rằng, khi mực nước biển dâng lên 100cm, diện tích đất bị
mất đi của Việt Nam sẽ lên tới 40.000km2, chiếm 12,1% tổng diện tích
đất hiện có, kéo theo hệ quả khiến khoảng 17,1 triệu người sẽ mất đi nơi sinh
sống. Biến đổi khí hậu là nhân tố chính gây ra bão, lũ, ngập lụt, lũ quét, sạt
lở, chiếm 87 - 91% số lượng thiên tai, ảnh hưởng đến 70% dân số, gây thiệt hại
khoảng 1 - 1,5% GDP, đe dọa nghiêm trọng tới việc thực hiện mục tiêu xóa đói,
giảm nghèo và các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam. Theo Bộ Tài nguyên
và Môi trường, trong giai đoạn 2011 - 2020, khí hậu cực đoan đã gây thiệt hại
nghiêm trọng về kinh tế với tổng thiệt hại lên tới khoảng 10 tỷ USD.
Liên
quan đến quyền con người, một trong số tác động của BĐKH là ảnh hưởng nghiêm
trọng đến bình đẳng giới.
Cả nam và nữ giới đều
chịu tác động bất lợi của biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, xét về năng lực ứng phó
theo giới, nữ giới là nhóm có xu hướng dễ bị tổn thương, chịu nhiều tác động
của biến đổi khí hậu và các rủi ro thiên tai hơn do các yếu tố về sức khỏe, khả
năng tiếp cận thông tin, hạn chế trong tham gia vào quá trình ra quyết định tại
cộng đồng. Hiểm họa tác động lên phụ nữ và nam
giới không đồng đều như nhau do họ các đặc điểm và mối quan hệ kinh tế, văn hóa
và xã hội khác nhau. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng phụ nữ thường bị ảnh hưởng
nặng nề hơn từ các loại hiểm họa so với nam giới. Những tác động khác nhau đó
không hoàn toàn do sự khác biệt của phụ nữ và nam giới về sinh học, thể chất
hay mức độ tiếp xúc với hiểm họa mà còn do tình trạng dễ bị tổn thương mang
tính xã hội bắt nguồn từ các vai trò xã hội khác nhau cũng như các mô hình phân
biệt giới hiện tại. Trong mỗi vùng, nhóm người nghèo, dân tộc thiểu số, những
người có thu nhập phụ thuộc vào khí hậu, người già, phụ nữ, trẻ em, người bị
bệnh tật được xác định là nhóm có mức tổn thương cao nhất do BĐKH. Nhóm phụ nữ
dân tộc thiểu số có mức độ tổn thương cao trước tác động bất lợi của BĐKH do họ
bị hạn chế hơn về khả năng tiếp cận giáo dục và ít có cơ hội tham gia các công
việc phi nông nghiệp.
Phụ nữ chiếm 50,7% tổng dân số Việt Nam, trong đó tỷ lệ phụ nữ ở thành thị
và nông thôn lần lượt là 34,5% và 65,5%. Lao động nữ trong ngành nông nghiệp
chiếm 63%, nhiều hơn so với nam giới (57%). Ở nông thôn, đa phần phụ nữ gắn bó
với hoạt động sản xuất nông nghiệp bao gồm trồng trọt, chăn nuôi và công việc
sau thu hoạch. Do đó khả năng bị tổn thương của lao động nữ cũng cao hơn nam giới khi ngành nông nghiệp
là một trong những ngành chịu tác động bất lợi nhất của BĐKH.S ự phân công lao động theo
giới trong từng lĩnh vực và trách nhiệm mà phụ nữ phải đảm nhận thêm do các
chuẩn mực giới thường hạn chế sự tham gia tích cực của họ vào việc ra quyết
định trong và ngoài phạm vi hộ gia đình. Phụ nữ ở các vùng nông thôn được Chính
phủ tạo điều kiện tiếp cận tín dụng ưu đãi nhưng hiện không có thông tin nêu
bật mối liên hệ của chương trình này với tính dễ bị tổn thương do BĐKH hoặc mức
độ chịu rủi ro khí hậu của phụ nữ. Ở nông thôn, phụ nữ cần tiếp cận với công
nghệ mới và đa dạng hóa sinh kế để chủ động ứng phó những tác động của BĐKH.
Báo
cáo mới đây của Bộ TN&NT cho thấy, hiện tượng thời tiết cực đoan
gia tăng làm tăng tác động bất lợi đến đời sống kinh tế của gia đình, giảm thu
nhập, tăng đói nghèo, gây khó khăn cho sinh kế của người dân góp phần gia tăng
tỷ lệ di cư. Số lượng phụ nữ di cư khỏi nơi sinh sống từ khu vực nông thôn,
miền núi ra các thành phố, đô thị, khu công nghiệp ngày càng tăng và cao hơn
nhiều so với số lượng nam giới di cư. Trong bối cảnh di cư và xa gia đình, phụ
nữ phải bươn chải, đối mặt với nhiều loại rủi ro, khó khăn, thách thức lớn hơn
trong cuộc sống. Trong các nhóm lao động nữ, phụ nữ dân tộc thiểu số có mức độ
rủi ro cao hơn trước BĐKH do khả năng tiếp cận với giáo dục hạn chế và không có
khả năng rời khỏi cộng đồng, thiếu quyền ra quyết định và trình độ học vấn
thường thấp hơn nam giới.
Trong thiên tai và
BĐKH, nếu xác định được nguyên nhân dẫn tới tình trạng dễ bị tổn thương của phụ
nữ và nam giới thì việc tìm ra các biện pháp giảm nhẹ tình trạng dễ bị tổn
thương của từng giới sẽ giúp cho họ giảm nhẹ hoặc phòng tránh được những rủi ro
của thiên tai. Trong Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến năm 2050
có nhiều nhóm nhiệm vụ và giải pháp quan trọng. Trong đó có việc thực
hiện tăng cường các giải pháp cung cấp nước sạch cho khu vực nông thôn, miền
núi, ven biển đặc biệt là những vùng chịu tác
động của bão, lũ, hạn hán, xâm nhập mặn. Phát triển mạng lưới y
tế, chăm sóc sức khỏe, đáp ứng yêu cầu về phòng chống dịch bệnh và các
bệnh mới phát sinh do BĐKH. Bảo đảm điều kiện vệ sinh môi trường; đầu tư
phát triển công nghệ, trang thiết bị trong dự phòng và điều trị các bệnh
gia tăng do BĐKH. Xây dựng và nhân rộng các mô hình của ngành y tế và sức
khỏe cộng đồng nhằm nâng cao khả năng chống chịu của cộng đồng, thích ứng
với BĐKH. Từ nay đến năm 2030, tập trung tăng cường hệ thống cơ sở hạ tầng
cấp nước và năng lực cung cấp nước sạch cho dân cư; phát triển mạng lưới y tế,
chăm sóc sức khỏe, phòng chống dịch bệnh, ưu tiên các đối tượng dễ bị tổn
thương, các vùng dân tộc ít người; tăng cường hệ thống giám sát và cảnh báo sớm
các tác động của BĐKH đến sức khỏe. Bảo đảm an sinh xã
hội và bình đẳng giới: Phát triển các mô hình sinh kế bền vững, chú
trọng đào tạo, chuyển đổi nghề và hỗ trợ công nghệ, tiếp cận các nguồn vốn cho
người dân ở những vùng chịu nhiều rủi ro, dễ bị tổn thương trước tác động của
BĐKH. Nâng cao nhận thức, kiến thức, năng lực quản lý rủi ro thiên tai và
thích ứng với BĐKH cho cán bộ, hội viên phụ nữ, thanh thiếu niên, người dân,
đặc biệt ở vùng có nguy cơ cao về thiên tai. Từ nay đến năm 2030, tăng
cường vai trò, năng lực và sự tham gia của phụ nữ và thanh thiếu
niên trong hoạt động thích ứng với BĐKH và quản lý rủi ro thiên
tai; đẩy mạnh các phong trào, hoạt động nâng cao nhận thức, kiến
thức cho thanh thiếu niên về BĐKH và các giải pháp trong phòng chống
thiên tai, thích ứng với BĐKH.
Trên
cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã kịp thời thể chế
hóa, ban hành một số luật, văn bản quan trọng để thúc đẩy, ứng phó với biến đổi
khí hậu và nhất quán đẩy mạnh thực hiện chủ trương từ “tham gia” thành “chủ
động, tích cực tham gia” hợp tác quốc tế trong ứng phó, thích ứng với biến đổi
khí hậu tại nhiều thể chế đa phương, quốc tế, khu vực. Không chỉ tham gia với
tư cách quốc gia thành viên, mà Việt Nam còn chủ động đề xuất nhiều sáng kiến,
cơ chế, phương thức hợp tác hiệu quả, góp phần quan trọng thu hút nguồn lực bên
ngoài trong ứng phó với biến đổi khí hậu, nâng cao hình ảnh và vị thế đất nước,
nhận được sự đánh giá cao của cộng đồng quốc tế. Trong hợp tác đa
phương, Việt Nam đã: 1- Ký kết và sớm phê chuẩn nhiều thỏa thuận lớn về
biến đổi khí hậu, như Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu
(UNFCCC) năm 1992, Nghị định thư Ky-ô-tô năm 1998, Thỏa thuận Pa-ri năm
2016...; 2- Tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế lớn về biến đổi khí hậu,
như Diễn đàn biến đổi khí hậu Á - Âu năm 2011 hay phiên Đối thoại cấp cao “Việt
Nam chung tay cùng các đối tác quốc tế ứng phó với các thách thức của biến đổi
khí hậu tại đồng bằng sông Cửu Long” năm 2015...; 3- Đóng góp tích cực thúc đẩy
các sáng kiến trong khuôn khổ Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác
kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(ASEAN), Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi
khí hậu (COP). Tại các Hội nghị COP lần thứ 26 và 27, Việt Nam đã cam kết đưa
mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Trong hợp tác song phương, Việt
Nam chủ động, tích cực đẩy mạnh hợp tác, đối thoại với các quốc gia phát triển,
nhận được nguồn vốn hỗ trợ lớn thông qua các tổ chức quốc tế, như Cơ quan Hợp
tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Cơ quan Phát triển Pháp (AFD), Ngân hàng Thế giới
(WB),... Báo cáo về đầu tư và chi tiêu công cho biến đổi khí hậu tại Việt Nam
năm 2022 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ủy ban Phát triển Liên hợp quốc (UNDP)
cho thấy, trong giai đoạn từ năm 2010 - 2019, Việt Nam đã nhận được khoảng 600
dự án quốc tế hỗ trợ ứng phó, thích ứng với biến đổi khí hậu có tổng số vốn ước
tính đạt 18,5 tỷ USD. Trong đó, tổng số nguồn vốn viện trợ không hoàn lại đạt
khoảng 1,1 tỷ USD, còn lại là vay ưu đãi. Tháng 12-2022, Việt Nam đã nhận được
cam kết hỗ trợ 15,5 tỷ USD từ Anh, Mỹ, các nước EU hỗ trợ chuyển đổi năng lượng
hóa thạch sang năng lượng tái tạo, giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Nhìn
nhận tác động, hiểm họa này, xuất phát từ chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp
lý, cả hệ thống chính trị của Việt Nam đã và đang nỗ lực tăng cường hợp tác
quốc tế, đa dạng hóa quan hệ với các đối tác nhằm huy động nguồn viện trợ, hỗ
trợ tài chính ưu đãi, và chủ động hợp tác với các nước, nhất là các nước phát
triển, như Mỹ, Pháp, Đức, EU,... vừa góp phần tranh thủ sự quan tâm của các
nước trong nỗ lực thúc đẩy ứng phó với biến đổi khí hậu trên toàn cầu, vừa huy
động được nguồn vốn viện trợ ưu đãi, bảo đảm nguồn lực tài chính đầu tư, giảm
áp lực vốn khi nguồn lực của đất nước còn hạn chế.
Việc
trở thành Thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ tạo điều kiện thuận lợi cho Việt
Nam tranh thủ diễn đàn này lan tỏa tiếng nói tích cực trong việc thúc đẩy hợp
tác quốc tế chống BĐKH nhằm bảo đảm quyền con người, đặc biệt liên quan đến vấn
đề bình đẳng giới, phụ nữ, trẻ em, người DTTS.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét