Do
tư tưởng định kiến với Việt Nam, các thế lực phản động, thù địch ở trong nước
và ngoài nước, trong đó có Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) luôn luôn
xuyên tạc trắng trợn về tình hình tôn giáo tại Việt Nam. USCIRF vẫn thường
xuyên sử dụng thông tin, tài liệu cũ, không chính xác từ các nhóm, phái tôn
giáo chưa được nhà nước công nhận cùng số chức sắc cực đoan bất mãn với chế độ,
định kiến với Đảng, Nhà nước để đưa vào các báo cáo thường niên về tự do tôn
giáo toàn cầu, phê phán việc thực hiện quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam và
khuyến nghị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào danh sách các nước cần theo
dõi đặc biệt về tự do tôn giáo. Họ tự cho mình quyền được khuyến khích, cổ vũ
các hoạt động tôn giáo trái pháp luật, không cần xin phép, đăng ký chính quyền,
thúc đẩy các hoạt động “tà đạo, đạo lạ” ở các vùng sâu, vùng xa, gia tăng hoạt
động mê tín dị đoan, trái thuần phong mỹ tục, trái pháp luật, gây bức xúc trong
xã hội và nhân dân. Họ xuyên tạc rằng “cả Hiến pháp và Luật Tín ngưỡng, tôn
giáo của Việt Nam đều có những quy định nhằm hạn chế quyền tự do tôn giáo”(!).
Họ cho rằng “Luật tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam bao gồm: các điều khoản mơ
hồ cho phép tự do tôn giáo vì lợi ích an ninh quốc gia và đoàn kết xã hội là
“bước thụt lùi”, “bóp nghẹt tôn giáo” không phù hợp với công ước quốc tế về
quyền con người”(!). Họ lợi dụng triệt để quan điểm “quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật” để cho rằng “tự do tôn giáo của Việt Nam
chỉ là hình thức”(!). Họ dựa vào việc các tổ chức đội lốt tôn giáo, có những
hoạt động vi phạm pháp luật, như: tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình (Tây
Bắc), Hà Mòn (Tây Nguyên), tịnh thất Bồng Lai (Long An),… bị chính quyền xử lý
để vu khống Việt Nam “vi phạm tự do tôn giáo, cấm đoán tôn giáo, đàn áp tôn
giáo”, v.v.
Thứ nhất, luật pháp về tôn giáo
Việt Nam tương thích, phù hợp luật pháp quốc tế về tín ngưỡng, tôn giáo.
Hiến pháp
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không đưa ra giới hạn nào về
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mà chỉ nghiêm cấm “xâm phạm tự do tín ngưỡng,
tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Cụ thể hóa
nội dung này, Điều 5, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 đã quy định các hành
vi bị nghiêm cấm: “(1). Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo;
(2). Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín
ngưỡng, tôn giáo; (3). Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo; (4). Hoạt động tín
ngưỡng, hoạt động tôn giáo mà: (a). Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; (b). Xâm hại đạo đức xã hội; xâm
phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của
người khác; (c). Cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; (d). Chia
rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người
không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác
nhau; (5). Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi”. Những quy định
trên hoàn toàn tương thích với các văn bản quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký
kết. Trong luật pháp quốc tế cũng như luật pháp của các quốc gia, quyền tự
do tín ngưỡng, tôn giáo không phải là tự do tuyệt đối, tự do vô chính phủ.
Tự do tín
ngưỡng, tôn giáo phải tôn trọng và không ảnh hưởng đến quyền tự do của người
khác và đặc biệt không được ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự công cộng,
môi trường, đạo đức xã hội. Chính vì vậy, để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng,
tôn giáo và ổn định, phát triển xã hội, Khoản 3, Điều 18, Công ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc (năm 1966) đã nhấn mạnh: “Quyền
tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi những quy định
pháp luật và các giới hạn này là cần thiết cho việc bảo vệ an toàn, trật tự
công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng hoặc những quyền và tự do cơ
bản của người khác”1. Điều 9, Công ước châu Âu về bảo vệ nhân quyền
và các quyền tự do cơ bản cũng khẳng định: “Quyền tự do thể hiện tôn giáo, tín
ngưỡng của một người chỉ bị luật pháp giới hạn nếu điều đó là cần thiết trong
một xã hội dân chủ, phục vụ an ninh công cộng, bảo vệ trật tự trị an, sức khỏe,
chuẩn mực đạo đức chung hoặc các quyền và sự tự do của người khác”2.
Luật Phân ly 1905 của nước Pháp cũng quy định: “Cộng hòa Pháp bảo đảm tự do tín
ngưỡng. Nó bảo đảm quyền tự do hành đạo với những hạn chế vì quyền lợi duy trì
trật tự công cộng”3. Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là
phải có giới hạn, quyền ấy sẽ bị hạn chế vì an ninh quốc gia, trật tự công
cộng, đạo đức xã hội, môi trường, chứ không như những đòi hỏi vô lý của các thế
lực phản động, thù địch, không thân thiện với chế độ chính trị ở Việt Nam.
Thứ hai,
lợi dụng tôn giáo vi phạm pháp luật thì ở nước nào đều bị xử lý.
Hẳn chúng ta còn nhớ, năm 2012, cảnh sát Mỹ đã
bắt giữ 07 thành viên nhóm Hutaree (Hu-ta-ri) tự xưng là “chiến binh Thiên chúa
giáo” vì có âm mưu chống lại chính quyền; còn tháng 7/2018, Tòa án Tối cao Nhật
Bản đã thi hành án tử hình đối với 06 thành viên giáo phái “Ngày tận thế” (Aum
Shinrikyo) cùng thủ lĩnh là Giáo chủ Shoko Asahara do gây ra vụ tấn công bằng
chất độc sarin năm 1995 nhằm vào hệ thống tàu điện ngầm Tokyo và các tội ác
khác. Điều đó cho thấy, ở bất cứ quốc gia nào, ai lợi dụng quyền tự do tôn giáo
để vi phạm pháp luật thì cũng đều bị trừng trị; ở Việt Nam không có “tù nhân
tôn giáo”, “tù nhân lương tâm” như các thế lực phản động, thù địch rêu rao, mà
chỉ có những người lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để tiến hành các
hoạt động vi phạm pháp luật mới bị xử lý.
Thứ ba, hiện thực là minh chứng phản
bác rõ ràng nhất.
Những năm qua, ở Việt Nam, nhờ có chủ trương,
chính sách, pháp luật về tôn giáo ngày càng được hoàn thiện và được thực hiện
nhất quán trong thực tiễn, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân ngày càng
phong phú; số lượng chức sắc, tín đồ, cơ sở thờ tự ngày càng tăng, quan hệ quốc
tế ngày càng mở rộng, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân ngày càng
được đảm bảo tốt hơn. Nếu năm 2003, cả nước có 15 tổ chức thuộc 06 tôn giáo với
17 triệu tín đồ, khoảng 20.000 cơ sở thờ tự, 34.000 chức sắc, 78.000 chức việc,
thì năm 2022, Nhà nước đã công nhận 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo với 26,7 triệu
tín đồ, 55.000 chức sắc, 135.000 chức việc, trên 29.000 cơ sở thờ tự, v.v.
Nhiều lễ hội lớn trong các tôn giáo đã thu hút hàng vạn tín đồ nhân dân tham
dự, nổi bật như: tháng 12/2017, Giáo hội Tin lành tổ chức thành công Lễ kỷ niệm
500 năm cải chánh đạo Tin lành; tháng 7/2019, Giáo hội Công giáo tổ chức Tổng
hội Dòng Đa Minh thế giới tại Đồng Nai, với đại biểu của hơn 80 quốc gia và
vùng lãnh thổ tham gia; Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tổ chức thành công 03
Đại lễ Phật đản Vesak Liên hợp quốc (năm 2008, 2014, 2019), riêng năm 2019 tổ
chức tại chùa Tam Chúc (tỉnh Hà Nam) đã thu hút sự tham dự của trên 3.000 đại
biểu chính thức (trong đó có 570 đoàn quốc tế với 1.650 đại biểu đến từ 112
quốc gia và vùng lãnh thổ). Với quy mô hoạt động tôn giáo hàng vạn người, chính
quyền các cấp đã hỗ trợ các tôn giáo về các phương án đảm bảo an toàn giao
thông, an ninh trật tự, phòng chống cháy nổ, an toàn vệ sinh thực phẩm để nhân
dân được tự do hành lễ, thoả mãn nhu cầu đời sống tâm linh, v.v.
Công tác đào tạo chức sắc được
các tổ chức tôn giáo đẩy mạnh. Trước năm 1990, cả nước có 06 cơ sở đào tạo tôn
giáo, đến năm 2021 đã tăng lên thành 63 cơ sở đào tạo, mỗi năm có hàng nghìn
người tốt nghiệp; ngoài ra, còn có hàng trăm người đang du học tại nước ngoài.
Nhờ vậy, số chức sắc, nhà tu hành tăng rất nhanh, cơ bản đáp ứng được nhu cầu
hướng dẫn việc đạo cho tín đồ. Các hoạt động phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm,
thuyên chuyển chức sắc, chức việc; các hoạt động thành lập tổ chức tôn giáo
trực thuộc; sửa đổi hiến chương, điều lệ; đăng ký chương trình hoạt động hằng
năm,... của các tôn giáo cũng được thực hiện thuận lợi theo đúng quy định của
pháp luật.
Việc in ấn, xuất bản, dịch thuật
một khối lượng lớn kinh sách, đồ dùng việc đạo được các tôn giáo đẩy mạnh trong
những năm qua. Theo báo cáo quốc gia về thực hiện quyền con người ở Việt Nam
theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III (năm 2019), cả nước có
hơn 3.000 đầu ấn phẩm tôn giáo được xuất bản với hơn 10 triệu bản in
và hàng triệu đĩa CD, DVD bằng nhiều ngôn ngữ (trong đó có nhiều kinh sách được
dịch ra tiếng dân tộc thiểu số, như Ba-na, Ê-đê, Gia-rai), 12 báo, tạp chí liên
quan đến tôn giáo; phần lớn các tổ chức tôn giáo đều có website riêng.
Công tác xây dựng, sửa chữa,
chỉnh trang cơ sở thờ tự của các tôn giáo cũng được quan tâm đẩy mạnh trong
những năm qua. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng cơ sở hoạt động của
các tổ chức tôn giáo, chính quyền các địa phương đã quan tâm giải quyết, cấp
đất cho các tổ chức tôn giáo. Theo Thứ trưởng Bộ Nội vụ Vũ Chiến Thắng, trong
10 năm (2012 - 2022) thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo,
cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp hàng trăm héc ta đất để xây dựng cơ sở
thờ tự, như: Thành phố Hồ Chí Minh đã giao 7.500 m2 đất cho
Tổng Liên hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) xây dựng Viện thành kinh thần
học; tỉnh Đắk Lắk giao hơn 11.000 m2 đất cho Tòa Giám mục Buôn
Ma Thuột; Thành phố Đà Nẵng giao hơn 9.000 m2 đất cho Tòa Giám
mục Đà Nẵng; tỉnh Quảng Trị giao thêm 15 héc ta cho Giáo xứ La Vang, v.v.
Những thành tựu đó không chỉ nhân
dân trong nước, trong đó có tín đồ các tôn giáo ghi nhận, mà còn được cả cộng
đồng quốc tế thừa nhận. Việc Việt Nam lần thứ hai trở thành thành viên Hội đồng
Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025 với số phiếu ủng hộ của 145/189
nước đã một lần nữa khẳng định quyền con người nói chung, quyền tự do tín
ngưỡng, tôn giáo của người dân ở Việt Nam nói riêng được bảo đảm tốt, không thể
phủ nhận.
Do vậy,
những nhận định thiếu khách quan, không đúng với thực tế tình hình tự do tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam sẽ không bao giờ có giá trị, mà chỉ làm tổn hại cho
quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước Việt Nam và Mỹ, cần phải được vạch
trần, phê phán, bác bỏ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét