Chủ Nhật, 20 tháng 12, 2020

Hội Nhà báo độc lập: Phạm Chí Dũng và đồng bọn bị kết tội ra sao?

 


Kể từ khi Phạm Chí Dũng, Chủ tịch cái gọi là Hội Nhà báo độc lập bị bắt, khởi tố, tiếp đó là Lê Hữu Minh Tuấn và Nguyễn Tường Thụy cùng nhập “đội” với Phạm Chí Dũng, cả băng nhóm này sắp được đưa ra tòa xét xử tới đây, nhiều tổ chức nhân quyền, truyền thông nước ngoài đưa ra nhiều “kháng thư” hoặc đòi hỏi Việt Nam giải trình về việc bắt, xử lý số này, lấy cớ họ chưa được luật sư vào bảo vệ, đưa thông tin bóp méo quá trình giam giữ kiểu “đối xử bất công”, rằng bản chất những kẻ này chỉ là “bất đồng chính kiến” nhằm can thiệp vào vụ án, đòi “chế độ”, đòi thả tự do cho nhóm bị can này.



PHẠM CHÍ DŨNG VÀ ĐỒNG BỌN CÓ VÔ TỘI?

Vậy thực chất Phạm Chí Dũng và băng nhóm Hội Nhà báo độc lập có đơn thuần  là “bất đồng chính kiến” hay không? Cơ sở chứng cứ, pháp luật hình sự nào cho kết tội họ? Liệu số này sẽ bị kết án ra sao?

Thứ nhất, băng nhóm Phạm Chí Dũng khi thành lập “Hội Nhà báo độc lập” là một tổ chức bất hợp pháp, mục đích không hề che dấu là xây dựng lực lượng nhà báo “độc lập”, “đối lập” với Hội Nhà báo Việt Nam hiện nay; dự định sẽ nhận được tài trợ, hỗ trợ của các thế lực, tổ chức nước ngoài tài trợ cho việc nuôi dưỡng, đào tạo họ về nghiệp vụ để biến Hội Nhà  báo Việt Nam thành tổ chức được các cơ chế quốc tế thừa nhận để chuyên tuyên truyền, vận động lật đổ chế độ chính trị hiện nay như tham vọng của nhóm “nhân sỹ trí thức” trong “Diễn đàn xã hội dân sự” mà Phạm Chí Dũng là thành viên.

Bản thân “Hội Nhà báo độc lập” là nơi quy tụ toàn thành phần nuôi ảo tưởng lật đổ chế độ, đều là thành viên, nòng cốt của các tổ chức phản động trong và ngoài nước khác y như Phạm Chí Dũng, công tác thân thiết với RFI, thành viên Diễn đàn Xã hội dân sự do Nguyễn Quang A cầm đầu. Nguyễn Tường Thụy là cây viết thuê chuyên nghiệp, ăn lương của RFA Việt ngữ, thành viên cả chục tổ chức phản động khác, Ngô Nhật Đăng hay linh mục Lê Ngọc Thanh- đều là gắn bó chặt chẽ với Việt tân và thành phần cực đoan trong Dòng Chúa cứu thế…

Với mục tiêu, tham vọng và nhân lực như vậy, rõ ràng Hội Nhà báo độc lập chỉ à cái vỏ bọc để đám phản động đội lốt nhằm có “danh nghĩa nhà báo độc lập” để hoạt động chống Đảng, Nhà nước mà thôi.

Thứ hai, về hành vi phạm tội, kết luận điều tra và cao trạng nêu rõ hành vi vi phạm pháp luật của số này.

Phạm Chí Dũng là kẻ sáng lập và lôi kéo nhiều người tham gia tổ chức bất hợp pháp, viết hàng ngàn bài có nội dung xấu, chống chính quyền, trong đó cáo trạng đã “lựa chọn” 25 bài viết của Phạm Chí Dũng sử dụng bút danh “Phạm Chí Dũng” nội dung tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân; thông tin bịa đặt, sai sự thaatuj xâm phạm danh dự, uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân, gây hoang mang làm người đọc hiểu sai sự thật, gồm: xâm phạm uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Chính phủ Việt Nam, của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam; xâm phạm uy tín Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thiện Nhân, Chủ tịch UBND Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Thành Phong và nguyên Chủ tịch, Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh Lê Thanh Hải

Nguyễn Tường Thụy cùng Phạm Chí Dũng tuyên bố thành lập tổ chức trái phép Hội Nhà báo độc lập, giữ vai trò “Phó Chủ tịch” phụ trách “Chi hội miền bắc”, được phân công là thành viên “Ban Biên tập”, phụ trách hoạt động tổ chức – nhân sự, phụ trách tặng quà tiền cho các trường hợp khiếu kiện, “dân oan”, người thân và các đối tượng chống đối bị xử lý hình sự và phụ trách trang facebook “Việt Nam Thời báo”. Quá trình tham gia “Hội Nhà báo độc lập”, Nguyễn Tường Thụy sử dụng bút danh “Nguyễn Tường Thụy” và “Tường Thụy” để viết khoảng 245 bài để đăng trên website “Việt Nam Thời  báo” cho nhiều người xem. Bản thân Nguyễn Tường Thụy thừa nhận nội dung 45 bài viết, trong đó có 05 bài viết được trưng cầu giám định là tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách Đảng và Nhà nước Việt Nam, là vi phạm pháp luật. Nguyễn Tường Thụy nhận tiền nhuận bút từ 02 tài khoản đăng ký tại ngân hàng BIDV và Techcombank với số tiền là 180.100.000đ. Ngoài ra, Thụy còn nhận số tiền 128.600.000 từ “Hội Nhà báo độc lập” để làm “thiện nguyện” và hỗ trợ cho gia đình số chống đối bị bắt giam, xử tù theo yêu cầu của Phạm Chí Dũng.

Còn với Lê Hữu Minh Tuấn được Phạm Chí Dũng dẫn dắt tham gia Hội Nhà báo độc lập, giữ vai trò chuyển tiền nhuận bút cho các thành viên khác, là cánh tay đắc lực cho Phạm Chí Dũng điều hành Hội Nhà báo độc lập. Bản thân Tuấn tham gia Hội Nhà báo độc lập từ tháng 8 năm 2014 đã viết khoảng 1300 bài gửi cho Phạm Chí Dũng đăng trên “Việt Nam Thời báo” và nhận số tiền nhuận bút là 423.253.000 đồng, trung gian chuyển 990.772.000 tiền nhuận bút cho các thành viên khác theo yêu cầu của Phạm Chí Dũng.

Trong số các bài viết của Lê Hữu Minh Tuấn, cơ quan an ninh điều tra đã kết luận 06 bài viết sử dụng bút danh “Nguyễn Hiền” đưa tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín chính quyền, xúc phạm danh dự của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân.

Như vậy, cả 3 kẻ cầm đầu, cốt cán của Hội Nhà báo độc lập sắp bị đưa ra xét xử đều đã có đủ chứng cứ cấu thành tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam” quy định tại Điều 117 Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

PHẠM CHÍ DŨNG VÀ ĐỒNG BỌN CÓ BỊ “PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ” TRONG TRẠI GIAM?

Việc một số cá nhân, tổ chức nước ngoài cho rằng Phạm Chí Dũng và đồng bọn bị “phân biệt đối xử”, không được luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, sức khỏe không được chăm sóc tốt trong tù,…

Nên nhớ trong các vụ án phạm tội xâm phạm An ninh quốc gia như Điều 117 BLHS đều thuộc tội danh đặc biệt nguy hiểm thì cơ quan tố tụng hoàn toàn có thể quyết định thời điểm các luật sư được tiếp cận bị cáo và nghiên cứu hồ sơ cho nhóm bị can này, thông thường khi vụ án đã kết thúc giai đoạn điều tra là hoàn toàn dựa trên căn cứ pháp luật tố tụng hình sự. Các luật sư và bị can đều được thông báo rõ ràng điều này và hiểu rõ về quy định nói trên.

Chẳng hạn trong trường hợp Phạm Chí Dũng, gia đình đã thuê hai luật sư Đặng Đình Mạnh, Nguyễn Văn Miếng, đều là những luật sư “quen thuộc”, chuyên bào chữa cho số tù nhân chống phá Nhà nước. Khi nhận được yêu cầu tham gia bảo vệ cho bị can Phạm Chí Dũng từ luật sư, Cơ quan An ninh điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã có văn bản trả lời, nêu rõ  bào chữa Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Quyết định số 01/QĐ-VKS-P1 ngày 06/12/2019 ‘quyết định thời điểm người bào chữa được tham gia tố tụng kể từ khi kết thúc điều tra vụ án’. Quyết định trên của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã viện dẫn điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Điều 74. Thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng

Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.

Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.

Trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.

Ngay khi cơ quan An ninh điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh  kết thúc điều tra đã thông báo cho các luật sư làm thủ tục bào chữa. Đúng như Luật sư Nguyễn Văn Miếng vào tối ngày 21/10 trả lời phóng viên Đài Á Châu Tự Do cho biết “Khi có thông báo bào chữa rồi thì chúng tôi được phép nghiên cứu hồ sơ và được phép vô trong trại giam, được gặp mặt thân chủ không hạn chế số lần ra vô trại.".

Cũng qua những luật sư này, được biết sức khỏe của cả 3 bị can đều không có vấn đề gì, họ đều có ý đồ bất hợp tác, phản cung hoặc từ chối cáo trạng, kết luận điều tra tại tòa. Tuy nhiên, một số thân nhân bị cáo như vợ Nguyễn Tường Thụy, bà Nguyễn Thị Lân – cũng là người sát cánh, luôn cổ vũ, ủng hộ các hoạt động chống chính quyền của chồng liên tục la lối, phủ nhận tội trạng của chồng và kêu gọi nước ngoài can thiệp trên Facebook cá nhân, kiểu: "Không biết họ điều tra cái gì khi những người này không hề vi phạm gì theo quy định của pháp luật Việt nam hiện hành. Tôi cực lực lên án nếu chính quyền kết tội họ!

Để đòi được công lý cho những người nằm trong đó có chồng tôi - anh Nguyễn Tường Thuỵ, tôi tha thiết cầu mong sự lên tiếng của các cá nhân, tổ chức của Việt Nam và cộng đồng quốc tế, các tổ chức nhân quyền kêu gọi trả tự do cho chồng tôi Nguyễn Tường Thuỵ, Phạm Chí Dũng và Lê Hữu Minh Tuấn".

Đây là lý do, “phong trào dân chủ Việt Nam” luôn có truyền thông “từ thiện” và cổ vũ cho thân nhân các trường hợp bị bắt, xử tù để họ “chuyên tâm” la ó, xuyên tạc, ăn vạ hoặc làm kênh truyền tin, thông điệp về “tinh thần chống đối đến cùng” của kẻ phạm tội trong trại tù. Càng đưa tin bịa đặt, càng la lối, càng tạo nhiều scandal tin giả, số thân nhân này càng nhận được nhiều sự hậu thuẫn về tài chính, đồng thời những lời hứa hẹn giúp đỡ đi tỵ nạn chính trị hoặc lời hứa của Việt tân, hay tổ chức “mẹ” cam kết vận động tổ chức này, cá nhân kia sẽ “can thiệp” Nhà nước Việt Nam cho thân nhân họ.

Chẳng hạn, Nguyễn Văn Hải Điếu Cày đi tù thì vợ cũ từ người phụ nữ tưởng như không còn quan hệ với chồng cũ thì nay đột ngột “gia nhập” vào “phong trào dân chủ”, trở thành nguồi “đại diện quyền lợi” cho Nguyễn Văn Hải trong các “giao dịch” với các cá nhân, tổ chức hậu thuẫn bên ngoài và là người chuyên nhận hỗ trợ tài chính và kẻ chuyên tung tin giả về Hải Điếu cày tuyệt thực, bị đàn áp đến mức độ cắt cụt tay…mới dẫn đến vô số chuyện hài dân mạng lưu truyền về việc Hải Điếu cày mọc lại tay sau khi được ra tù và “xuất khẩu” đến Mỹ. Nhưng nhờ màn ăn vạ, dựng chuyện, than khóc với các nhà tài trợ hải ngoại không mệt mỏi mà bà vợ của Hải Điếu cày đã phát động được nhiều chiến dịch truyền thông đòi trả tự do cho ông ta và săn được tấm vé “xuất khẩu dân chủ” cho Hải Điếu Cày. Nhưng đau đớn thay cho bà vợ cũ này, Hải Điếu cày sang Mỹ lập tức cắt đứt quan hệ với bà ta mà đoàn tụ với người tình bí ẩn của mình khiến bà ta khóc ròng trong cay đắng.

Khác với trường hợp vợ Hải Điếu Cày, vợ Cù Huy Hà Vù là luật sư, cũng chuyên dựng chuyện ông ta tuyệt thực và làm rùng beng truyền thông, được nhiều tổ chức nhân quyền và chính khách phương Tây quan tâm, được hẳn truyền thông Nhà nước vào trong tù làm phóng sự về việc tuyệt thực và có thước phim tư liệu khôi hài về thái độ “thẳng thắn” của Cù Huy Hà Vũ về chuyện “ngu gì mà tuyệt thực” cùng kho lương thực quá ư sung túc trong phòng giam của ông ta và lý do “tuyệt thực cơm tù, chỉ ăn cơm nhà” của Vũ chỉ xuất phát từ phản đối giám thị mở cửa phòng giam ông ta mỗi sáng là “đe dọa tính mạng của ông ta”!!!

Từ đó, ta cũng dễ hiểu được màn “kẻ tung người hứng” trên các phương tiện truyền thông nước ngoài và Internet về tố cáo chế độ giam giữ, hay sự ngược đãi với số tù nhân chống chính quyền này. Kẻ tung tin có nhu cầu làm nóng vấn đề, kẻ tiếp nhận tin có nhu cầu “cần nguồn cung cấp” để có cớ can thiệp và có cớ lên án Việt Nam “đàn áp dân chủ, nhân quyền”. Tất cả đều là màn đạo diễn mà “kẻ tung người hứng” đều thuộc lòng “kịch bản”!

Nguyễn Biên Cường

Thứ Tư, 16 tháng 12, 2020

"Những nhà Tiên tri Nói dối”: một nghiên cứu Marxist về lối tuyên truyền dân túy


Mặc dù xuất hiện trong đời sống chính trị của nhân loại đến nay đã hơn một trăm năm, tuy nhiên trước sự nổi lên có tính toàn cầu của chủ nghĩa dân túy trong những năm gần đây đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống chính trị-xã hội trên các châu lục, khu vực và nhiều quốc gia trên thế giới, với những diễn biến rất phức tạp và khó lường. “Những nhà Tiên tri Nói dối” (Prophets of Deceit), cuốn sách xuất bản năm 1949 của hai nhà xã hội học Marxist là Leo Lowenthal và Norbert Guterman, đã đưa ra một lý giải thú vị lên án lối tuyên truyền dân túy hiện nay.





1. Bối cảnh của cuốn sách

Trong thập niêm 1930, một số nhà xã hội học Marxist thuộc Trường phái Frankfurt ở Đức – như Max Horkheimerm, Theodor W. Adorno, Leo Lowenthal… – đã di cư sang Mỹ để tránh sự truy bức của chính quyền Hitler. Năm 1943, họ cộng tác với Ủy ban người Do Thái Hoa Kỳ để điều tra chủ nghĩa bài Do Thái ở Mỹ và xuất bản một nghiên cứu nhiều tập. Nhóm nghiên cứu cho rằng vào thời điểm đó, một làn sóng bài ngoại, phân biệt chủng tộc và độc tài đang có nguy cơ xuất hiện ở Mỹ, do ảnh hưởng của những kẻ kích động và thao túng đám đông. Adorno cũng tin rằng mối nguy lớn nhất đối với nền dân chủ Mỹ nằm ở ngành công nghiệp văn hóa – với những phương tiện như điện ảnh, phát thanh, truyền hình – vì guồng máy kinh doanh này tự tạo ra sự rập khuôn, gạt bỏ bất đồng chính kiến và làm câm lặng tư tưởng, dù có hay không bị kiểm duyệt.

Năm 1949, nhóm nghiên cứu cho ra mắt cuốn “Những nhà Tiên tri Nói dối”, như tập đầu tiên trong “Bộ sách Nghiên cứu về Định kiến” (Studies in Prejudice Series) của Ủy ban Do Thái Hoa Kỳ. Cuốn sách xuất phát từ kết quả của một nghiên cứu về những bài viết và chương trình phát thanh của các nhóm phát xít hoạt động ở Mỹ trong hai thập niên 1930 và 1940, được phân tích dưới góc nhìn tâm lý xã hội.

2. Tóm tắt nội dung sách

Cuốn sách cho rằng các nhóm phát-xít ở Mỹ thường soạn thông điệp tuyên truyền theo một mô hình gồm 4 bộ phận – là “Bất mãn”, “Kẻ địch”, “Lãnh tụ”, “Phong trào”.

Theo đó, kẻ kích động chính trị phải tận dụng những “Bất mãn” xã hội có thật, xuất phát từ các nguyên nhân phức tạp. Chúng bao gồm “những căng thẳng áp đặt lên cá nhân bởi các biến đổi sâu sắc đang diễn ra trong cấu trúc kinh tế và xã hội – như việc thay các nhà sản xuất nhỏ độc lập bằng những bộ máy quan liêu công nghiệp khổng lồ, sự suy tàn. của gia đình phụ quyền, sự tan vỡ của các mối quan hệ cá nhân cơ bản giữa người với người trong một thế giới ngày càng cơ giới hóa, việc thay các khuôn mẫu truyền thống bằng văn hóa đại chúng…”.

Thay vì làm rõ những nguyên nhân phức tạp đó, kẻ kích động tuyên truyền rằng những khó khăn mà người dân đang gặp phải là kết quả của một “âm mưu chính trị toàn diện và được lên kế hoạch cẩn thận”, xuất phát từ những “Kẻ địch” cụ thể, mà hắn gọi là “những kẻ thù của quốc gia”. “Kẻ địch” có thể bao gồm “nước ngoài”, “người nhập cư”, “bọn Marxist”, “bọn thiên tả”… Thế giới được chia đôi thành hai phe thiện-ác, địch-ta, trong đó “Kẻ địch” được mô tả là xấu xa, thoái hóa từ trong bản chất.

Tiếp đó, kẻ kích động tuyên truyền rằng cuộc khủng hoảng chỉ có thể được giải quyết bằng một phương thức duy nhất: đánh bại “Kẻ địch” bằng một “Phong trào” tập hợp những người tuân phục “Lãnh tụ”. Họ đòi hỏi “Phong trào” phải đông đảo, chiếm ít nhất 75% tổng số dân. Họ mô tả “Lãnh tụ” như một người sở hữu những năng lực đặc biệt, “vừa là một người dân bình thường (…) vừa vượt xa những người dân thường”. Theo cách này, kẻ kích động biến mọi xung lực trong xã hội thành một phong trào phục tùng lãnh tụ, trong cuộc chiến chống lại các “kẻ thù của đất nước”.

Cuốn sách cho rằng cần phân biệt những kẻ kích động kiểu này với các nhà cải cách hoặc nhà cách mạng. Trong khi những nhà cải cách, nhà cách mạng tìm cách thay đổi xã hội, và có tầm nhìn rõ ràng về mục tiêu của mình, những kẻ kích động chỉ khước từ hiện trạng xã hội, và hướng bức xúc vào những nhóm người không hẳn là nguyên nhân của khủng hoảng. Vì không hiểu nguyên nhân của khủng hoảng, kẻ kích động không giải quyết được khủng hoảng, mà chỉ khiến nó trầm trọng thêm do xung đột giữa các bộ phận trong xã hội. Ngoài ra, không khí bất dung và sự tập trung quyền lực xung quanh “Lãnh tụ”cũng khiến nền chính trị dịch chuyển theo hướng độc đoán.

3. Sự trở lại của “những nhà tiên tri giả”

Những kẻ kích động đám đông thường chỉ hoạt động bên lề của nền chính trị Mỹ. Dù vậy, nhóm tác giả cảnh báo rằng trong một số tình huống nhất định, như khi tầng lớp trung lưu của Mỹ bị đẩy vào thế bất an, một bộ phận đáng kể người dân có thể chịu ảnh hưởng từ các thủ thuật thao túng tâm lý của kẻ kích động.

Nhận xét này dường như ứng với lần đắc cử năm 2016 của Tổng thống Mỹ Donald Trump. Do thất vọng trước một trật tự quốc tế, cùng một cuộc cách mạng công nghệ làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo và những lời hứa suông của “giới tinh hoa chính trị”, phân nửa cử tri Mỹ đã đặt niềm tin vào một “Lãnh tụ” biết hướng sự thù ghét vào Trung Quốc, các nhóm sắc tộc, tôn giáo thiểu số, giới báo chí và giới chuyên gia. Đa số “đối lập dân chủ” Việt Nam - vốn sống dựa vào việc đổ lỗi cho Trung Quốc và cho chính phủ, không cần biết nguyên nhân và giải pháp của các vấn đề trong xã hội – cũng nhanh chóng trở thành một phần trong guồng máy tuyên truyền độc đoán của “Lãnh tụ” này. Giờ đây, chính trong nội bộ giới “dân chủ Việt” - sau khi bị chia rẽ, tan tác vì Trump đang ngộ ra, cần hô hào tẩy chay chủ nghĩa dân túy!?!

Tuy nhiên xu hướng dân túy của Tổng thống Mỹ Donald Trump sẽ còn có ảnh hưởng ở Mỹ, chừng nào chính quyền Joe Biden chưa tìm ra giải pháp cho cuộc khủng hoảng mà nước Mỹ đang phải đối mặt.

Nguyễn Biên Cương


Thứ Bảy, 12 tháng 12, 2020

Trần Huỳnh Duy Thức lại tuyệt thực, nhưng không còn được hải ngoại “đồng hành”


Ngày 30/11/2020, trong buổi thăm gặp tại trại giam ở tỉnh Nghệ An, Trần Huỳnh Duy Thức đã nói với người nhà rằng mình vừa tụt huyết áp, tụt 3,5 kg sau khi tuyệt thực 7 ngày để “phản đối Tòa án Nhân dân Tối cao không tôn trọng pháp luật, không trả lời đơn yêu cầu miễn hình phạt còn lại (gửi ngày 07/07/2018) và đơn đề nghị phúc đáp (gửi ngày 19/08/2020)”. Cùng ngày, gia đình Thức đã đưa thông tin này lên Internet, kèm theo thư tuyệt mệnh ngắn của Thức, có nội dung như sau:

“Xin lỗi ba, cả nhà và mọi người.  Tôi xin lỗi vì đã không đi được đến thành công với các bạn, hãy tiếp tục con đường khai sáng cho dân tộc và cho nhân loại, các cuộc đấu tranh cần hướng đến thượng tôn Quyền Con Người, hãy tận dụng sự ra đi của tôi để đẩy cuộc đấu tranh này đến cuối cùng trong năm nay và năm sau. Cảm ơn mọi người, tôi sẽ luôn nhớ theo các bạn.”

Nhân thư tuyệt mệnh này, giới chống đối đã đồng loạt ca ngợi Thức là anh hùng hy sinh vì dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam.

Ngoài ra, một số người, như Trịnh Hữu Long, đã can rằng Thức nên quý trọng sinh mạng thay vì “hủy hoại cơ thể mình” để đấu tranh. Long phân tích rằng cách đấu tranh của Thức sẽ không hiệu quả, vì cả “các hoạt động đấu tranh bên ngoài” lẫn “khả năng can thiệp của các cường quốc” đều “đang xuống rất thấp”, còn các quan chức liên quan không thể nhượng bộ Thức trong bối cảnh trước Đại hội Đảng:



Ở chiều ngược lại, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh viết rằng người bên ngoài nên tôn trọng quyết định của Thức khi đấu tranh đòi trại giam phải làm đúng luật, thay vì chỉ áp ý riêng của mình lên. Quỳnh cũng nói rằng Quỳnh đã thành công trong việc tuyệt thực để đòi trại giam phải làm đúng luật hồi năm 2018:



Tuy nhiên, có thể các status can ngăn, như của Trịnh Hữu Long, chỉ nhằm chuẩn bị dư luận để chữa thẹn cho Thức, trong trường hợp Thức chủ động ngừng tuyệt thực để giữ sinh mạng. Được biết Trần Huỳnh Duy Thức đã tuyệt thực nhiều lần, lần gần nhất diễn ra ngay hồi tháng 10/2020:



Sau khi xem xét vấn đề, chúng tôi nghĩ anh chị em dân chửi nên bình tĩnh. Anh Thức tuyệt thực bao nhiêu lần rồi mà có chết đâu, lần này chết thế nào được. Chẳng qua anh tuyệt thực vào thời điểm này để nhắc Tổng thống mới của nước Mỹ, với chính sách về nhân quyền khá hơn chính quyền trước, không quên mất anh mà thôi. Vì vậy, anh em dân chửi cũng nên đồng hành tuyệt thực với anh Thức như các lần trước, mỗi người tuyệt thực nửa ngày hoặc một ngày, đừng để phong trào xịt làm anh Thức phải ê mặt.

Nguyễn Biên Cương

Thứ Sáu, 11 tháng 12, 2020

Thay đổi chế độ có mang lại công lý?


Ngày 21/11/2020, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã ra bản kết luận điều tra vụ "Chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước" tại Hà Nội, chuyển hồ sơ đến Viện Kiểm sát để truy tố 4 bị can, trong đó có cựu Chủ tịch Tp.Hà Nội là ông Nguyễn Đức Chung. Ngày 02/12, Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề nghị Bộ Chính trị khai trừ tư cách Đảng viên của ông Chung.

Nhân những diễn biến này, một số gương mặt chống Cộng đã tuyên truyền rằng diễn biến vụ Nguyễn Đức Chung cho thấy cần thay đổi chế độ chính trị theo hướng đa đảng, tư pháp và báo chí độc lập.



Trong một cuộc hội luận được BBC đăng tải hôm 24/11, Lê Quốc Quân và Trịnh Hữu Long nói rằng vì Việt Nam là một nước độc đảng, không có đối lập, tư pháp và báo chí độc lập; quyền giám sát, điều tra, xét xử các chính trị gia hoàn toàn nằm trong tay các cơ quan nhà nước, thay vì trong tay người dân. Vì vậy, quá trình điều tra và xét xử có thể thiếu khách quan, minh bạch. Chẳng hạn, trong vụ Nguyễn Đức Chung, báo chí chỉ đăng những thông tin gây bất lợi cho ông Chung do nhà nước cung cấp, chứ không hề đưa thông tin từ phía ông Chung.

Từ đó, họ nói rằng cần thay đổi chế độ chính trị theo hướng đa đảng, tư pháp và báo chí độc lập, để đảm bảo người dân có quyền giám sát các quan chức và bộ máy nhà nước, không để tham nhũng tràn lan.

Ngoài ra, ngày 04/12, Nguyễn Hữu Vinh (Ba Sàm) cũng nói với BBC rằng “việc nhiều sĩ quan cao cấp thuộc ngành Công an Việt Nam bị xử lý dưới nhiều hình thức trong thời gian qua, trước hết đó là hậu quả của việc họ có quyền lực quá lớn”.

Sau khi xem xét vấn đề, tôi xin đưa ra 2 ý kiến:

Thứ nhất, các diễn biến thực tế cho thấy trong 5 năm vừa qua, quyền lực của ngành Công an đã liên tục được giới hạn lại cho phù hợp với các đòi hỏi của xã hội. Về mặt nhân sự, ngành này đã cắt giảm hơn 30.500 biên chế. Về mặt thẩm quyền, người dân đã có quyền ghi hình cảnh sát giao thông đang làm nhiệm vụ, và một đề xuất mở rộng nhân số của lực lượng bảo vệ trị an ở cơ sở đã bị các Đại biểu Quốc hội phủ quyết. Việc có nhiều sĩ quan cao cấp thuộc ngành Công an bị xử lý trong suốt chiến dịch chống tham nhũng cũng cho thấy ngành này không có cơ hội lạm quyền. Vì vậy, mô tả của ông Nguyễn Hữu Vinh không phản ánh đầy đủ tình hình thực tế.

Thứ hai, một nước phải chọn thể chế chính trị dựa trên các đặc điểm về nhân khẩu, văn hóa và địa chính trị, chứ không thể cưỡng ép. Các cuộc cách mạng đường phố nhằm cưỡng ép thay đổi thể chế chính trị đã chỉ đem lại tình trạng vô chính phủ, nội chiến và ngoại thuộc ở Libya, Syria... Trong những trường hợp này, công lý chỉ thụt lùi so với trước khi thay đổi thể chế. Ở Philippines, chế độ dân chủ đa đảng và tam quyền phân lập cũng đã thất bại trong việc bảo vệ công lý, khi chính Tổng thống Duterte cho phép xử lý nghi phạm không qua xét xử. Bản thân giới dân chửi người Việt cũng đang là một cộng đồng không có luật lệ, với môi trường thông tin tràn ngập tin giả và bạo lực ngôn từ. Với những kinh nghiệm này, việc cải thiện hệ thống hiện nay, sao cho công lý được bảo vệ một cách tốt hơn, xem ra là phương án an toàn hơn bât cứ cuộc lật đổ nào mà giới dân chửi đang đề nghị.

 Nguyễn Biên Cương

 


Thứ Ba, 1 tháng 12, 2020

RCEP khiến Việt Nam “thân Trung thoát Mỹ”?


Ngày 15/11/2020, 10 nước ASEAN và 5 nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và New Zealand đã ký kết Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) sau 8 năm đàm phán. Một ngày trước khi Trung Quốc ký kết Hiệp định, tờ Hoàn cầu Thời báo của nước này đã đăng một bài bình luận cho rằng “RCEP sẽ chấm dứt quyền bá chủ của Mỹ ở Tây Thái Bình Dương”. Hôm sau, tờ New York Times của Mỹ cũng đăng bài có tựa đề “Hiệp định do Trung Quốc dẫn dắt được ký kết, một thách thức với Hoa Kỳ”. Vì các nhóm chống Nhà nước Việt Nam lệ thuộc nhiều vào việc khai thác xung đột Mỹ-Trung và Việt-Trung, họ đã dành nhiều giấy bút để bình luận về sự kiện này, chủ yếu theo 2 hướng.

Hướng thứ nhất tập hợp những người tuyên truyền rằng RCEP sẽ gây hại cho Việt Nam. Chẳng hạn, ngày 18/10, bà Phạm Chi Lan nói với BBC rằng “một cơ chế thương mại mới theo nội vùng như thế này” sẽ khiến Việt Nam “lại tiếp tục nhập siêu và có khi nặng nề hơn” “từ Trung Quốc, từ Hàn Quốc” “và cả ASEAN nữa”. Ngoài ra, bà Lan cũng cho rằng “vì ham làm với những thị trường dễ tính” trong RCEP “mà các doanh nghiệp Việt Nam, các ngành kinh tế, công nghiệp, nông nghiệp v.v... của Việt Nam sẽ không chịu đầu tư nghiêm túc để vươn lên làm những sản phẩm đạt chuẩn mực cao hơn của các thị trường khó tính hơn như EU, như Hoa Kỳ, như Nhật Bản, để từ đó nâng cấp bền vững, lâu dài các ngành xuất khẩu của mình, thay vì là chỉ cứ làm gia công mãi, hoặc là làm những sản phẩm với giá trị gia tăng rất thấp”.

Trong khi đó, Phạm Đình Trọng viết rằng “mất TPP, phải vào RCEP, như bỏ Quốc tế Hai vào Quốc tế Ba vậy”. (Ở đây, ông Trọng chỉ nhìn sự kiện qua lăng kính chính trị ý thức hệ, khi ví TPP có các điều khoản về nhân quyền với Quốc tế II dân chủ đa đảng, và RCEP không có các điều khoản về nhân quyền với Quốc tế III theo đường lối độc đảng.)

Bộ phận chống Trump trong giới chống đối cũng tích cực tận dụng hướng dư luận thứ nhất. Họ bình luận rằng việc Trump rút khỏi TPP đã góp phần khiến Trung Quốc ký được RCEP và thiết lập ảnh hưởng trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương:



Hướng thứ hai tập hợp những người cho rằng RCEP sẽ không gây thiệt hại quá lớn đến Việt Nam. Chẳng hạn, bài của Jackhammer Nguyễn trên báo Tiếng Dân có đoạn: “Một viên chức Việt Nam nói với tôi: RCEP cũng bình thường thôi, những quốc gia khác làm thì mình cũng làm thôi. (…) Có hay không có RCEP thì Việt Nam luôn bị sự đe dọa thường trực từ Bắc Kinh, cả kinh tế, lẫn quân sự, chính trị. (…) Ảnh hưởng của Trung Quốc lên Việt Nam rất lớn, nhưng ảnh hưởng đó lên Thái Lan, Philippines và cả Singapore, đồng minh thân thiết của Mỹ ở Á châu, cũng không phải là nhỏ. (…) Và RCEP đâu có cấm các mối quan hệ khác của Việt Nam với những khối khác, những nước khác!”.

Sau khi xem xét vấn đề, tôi xin đưa ra 2 ý kiến:

Thứ nhất, tôi đồng ý với quan điểm rằng RCEP sẽ không gây thiệt hại quá lớn đến Việt Nam. Hàng rào thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc vốn đã tương đối thấp, nên RCEP sẽ không tác động nhiều đến thâm hụt thương mại giữa hai nước. Nếu khéo léo, Việt Nam có thể dùng RCEP như một phương tiện để hạn chế hàng nhập lậu, hàng kém chất lượng từ Trung Quốc vào Việt Nam. Và nhờ EVFTA, Việt Nam sẽ không lo bị lệ thuộc vào kinh tế Trung Quốc do RCEP

Thứ hai, giới dân chửi sợ RCEP không phải vì các thiệt hại mà nó đem lại cho Việt Nam. Họ sợ rằng nhờ RCEP, xung đột Mỹ-Trung sẽ không biến thành một cuộc Chiến Tranh Lạnh, khiến Mỹ không thể lật đổ các chế độ độc đảng ở Trung Quốc và Việt Nam rồi đưa họ lên làm lãnh đạo. Cần lưu ý rằng 15 nước ký RCEP bao gồm cả nhiều đồng minh của Mỹ trong khu vực – như Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand, Singapore, Philippines… Những nước này ký RCEP có lẽ không chỉ vì lợi nhuận, mà còn vì không muốn bị biến thành con tốt trong chiến tranh lạnh, chiến tranh nóng giữa Mỹ và Trung Quốc.

Cũng như các nước vừa kể, Việt Nam không thu được lợi ích gì từ một cuộc xung đột kéo dài giữa hai bờ Thái Bình Dương. Những xung đột quá đà như vậy chỉ khiến người dân phải đối mặt với các hậu quả của khủng hoảng kinh tế, chiến tranh và chủ nghĩa dân túy. Cái cần được thiết lập ở bờ Tây Thái Bình Dương không phải là chiến tranh lạnh, mà là hòa bình trên cơ sở pháp luật quốc tế và trật tự đa cực.

Qua thái độ của giới dân chửi trong vụ việc này, có thể thấy họ vừa lệ thuộc hoàn toàn vào Mỹ, vừa không có chung lợi ích với đa số người dân Việt Nam.

 Nguyễn Biên Cương