Thứ Hai, 31 tháng 7, 2023

Phơi bày thủ đoạn xuyên tạc về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam

 

Để can thiệp, chống phá Việt Nam về nhân quyền, một trong những thủ đoạn phổ biến nhất là “bảo vệ tự do tôn giáo”. Những con bài xung kích thực hiện mưu đồ chống phá trên lĩnh vực này, không thể không kể đến USCIRF. Từ khi được thành lập năm 1998, hằng năm USCIRF đều có báo cáo với một cái nhìn sai trái, thù địch, phiến diện, thiếu khách quan về tự do tôn giáo ở Việt Nam.  Tổ chức này thường lặp đi lặp lại điệp khúc rằng: tình trạng vi phạm tự do tôn giáo vẫn tiếp diễn ở Việt Nam; sự đàn áp của Chính phủ tiếp tục là một thực tế khắc nghiệt đối với các nhóm tôn giáo độc lập chưa đăng ký(?!). 



Có thể nhận diện và phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc đó trên 4 cách thức xuyên tạc sau đây:

Thứ nhất, họ thường xuyên tạc rằng các quy định về quyền tự do tôn giáo trong pháp luật Việt Nam là “hạn chế về bản chất, “đi ngược lại với các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế và vi phạm một cách có hệ thống tự do tín ngưỡng”(?!).

Thứ hai, họ thường xuyên tạc rằng, cả Hiến pháp và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam đều có những quy định nhằm hạn chế quyền tự do tôn giáo: Hiến pháp cũng quy định sự tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo, nhưng nó cho phép các cơ quan chức năng hạn chế quyền con người, bao gồm cả quyền tự do tôn giáo; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo có các quy định tương tự cho phép hạn chế quyền tự do tôn giáo(?!). Những lập luận xấu, độc, nguy hiểm này là bất chấp an ninh quốc gia, trật tự công cộng, an toàn xã hội, đạo đức xã hội và hạnh phúc của cộng đồng.

Thứ ba, họ xuyên tạc mô hình quản lý tôn giáo theo chế độ “đăng ký” của Việt Nam. Họ lập luận hàm hồ rằng, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo bắt các tôn giáo phải đăng ký, bao gồm: các điều khoản mơ hồ cho phép tự do tôn giáo vì lợi ích an ninh quốc gia và đoàn kết xã hội; đặt ra gánh nặng và yêu cầu phức tạp đối với các nhóm tôn giáo để đăng ký với chính phủ; có những quy định sự kiểm soát đáng kể của chính phủ đối với các hoạt động tôn giáo bằng những điều khoản hạn chế quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, như duy trì một quy trình đăng ký và công nhận nhiều giai đoạn cho các nhóm tôn giáo (?!).

Thứ tư, luận điệu xuyên tạc về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam chủ yếu dựa vào một số  hiện tượng, nhóm trái pháp luật mang danh nghĩa tôn giáo, chưa được công nhận, có hiện tượng hoạt động vi phạm pháp luật để quy kết Việt Nam “đàn áp tôn giáo”. Ví dụ như: Nhóm bất hợp pháp Dương Văn Mình (Tây Bắc), Hà Mòn (Tây Nguyên), Hội thánh Đức Chúa Trời Mẹ, Pháp luân công (không được thừa nhận là hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo). Các hiện tượng (nhóm) đó chưa đủ điều kiện để được đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung hay công nhận tư cách pháp nhân tôn giáo theo quy định của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo (giáo lý, giáo luật, lễ nghi, tôn chỉ, mục đích, điều lệ, tổ chức, nhân sự). Thậm chí có một số nhóm lợi dụng hoạt động tôn giáo chống Nhà nước Việt Nam, như Văn phòng Công lý và hòa bình (do một số giáo sĩ, tu sĩ cực đoan của tỉnh dòng Chúa Cứu thế Việt Nam); nhóm Hội đồng Liên tôn (gồm một số giáo sĩ cực đoan thuộc 5 tôn giáo tham gia: Công giáo, Tin lành, Phật giáo, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo); nhóm Liên đoàn dân chủ Công giáo Việt Nam; nhóm Phật giáo Việt Nam thống nhất; nhóm Phật giáo Hòa Hảo thuần túy  Phật giáo Hòa Hảo truyền thống; nhóm Khối Nhơn sanh (Cao Đài); nhóm Tin lành Đấng Christ, Tin lành Lutheran Việt Nam - Hoa Kỳ (trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên; nhóm Giê-sùa, Bà Cô Dợ (Tin lành ở Tây Bắc)... đã được USCIRF nêu lên như những minh chứng cho việc Việt Nam “đàn áp tôn giáo”(?!).

Phản bác các luận điệu xuyên tạc, thủ đoạn chống phá nêu trên, PGS, TS. Nguyễn Phú Lợi đã đưa ra các lập luận như sau:

Thứ nhất, ở Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn được Đảng, Nhà nước ta khẳng định, được pháp luật thừa nhận và thực thi trong thực tế. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã mở rộng nội hàm khái niệm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, thay cụm từ “mọi công dân” (quyền công dân) (Hiến pháp năm 1992), bằng cụm từ “mọi người” (nhân quyền, quyền con người). Điều 24, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.

Cụ thể hóa quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Hiến pháp năm 2013, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 khẳng định: 1- Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; 2- Mỗi người có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo; tham gia lễ hội; học tập và thực hành giáo lý, giáo luật tôn giáo; 3- Mỗi người có quyền vào tu tại cơ sở tôn giáo, học tại cơ sở đào tạo tôn giáo, lớp bồi dưỡng của tổ chức tôn giáo; người chưa thành niên... phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý; 4- Chức sắc, chức việc, nhà tu hành có quyền thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo tại cơ sở tôn giáo hoặc địa điểm hợp pháp khác.

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được mở rộng cho cả những “người bị tạm giữ, người bị tạm giam theo quy định của pháp luật về thi hành tạm giữ, tạm giam; người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc”, và “người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam” (Điều 8).

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không chỉ được Đảng và Nhà nước Việt Nam khẳng định, được pháp luật thừa nhận và thực thi trong thực tế, mà còn có sự tương thích, phù hợp với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo luật pháp và thông lệ quốc tế. Điều 18 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (Việt Nam tham gia năm 1982) quy định: “1. Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền tự do này bao gồm việc tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, tự do thể hiện tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong tập thể với nhiều người khác, một cách công khai hoặc thầm kín dưới hình thức thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và giảng đạo; 2. Không một ai có thể bị ép buộc phải làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn một tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ”. Tương tự như vậy, Điều 9 Công ước châu Âu về bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do cơ bản (ECHR) ghi: “1. Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo; quyền này bao gồm quyền tự do thay đổi tôn giáo, tín ngưỡng và quyền tự do thể hiện tôn giáo, tín ngưỡng của mình thông qua hành vi thờ phụng, thuyết giảng, thực hành và tuân thủ giáo luật một mình hoặc với một nhóm, ở nơi riêng tư hoặc nơi công cộng”.

Thứ hai, trong luật pháp quốc tế cũng như luật pháp của các quốc gia, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải là tự do tuyệt đối, tự do vô chính phủ. Tự do tín ngưỡng phải tôn trọng và không ảnh hưởng đến các quyền công dân, đến quyền tự do của người khác và đặc biệt không được ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự công cộng, môi trường, đạo đức xã hội. Chính vì vậy, để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và ổn định, phát triển xã hội, Điều 5 Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam quy định rõ các hành vi bị nghiêm cấm: “1. Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; 2. Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; 3. Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo; 4. Hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo; a) Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; b) Xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; c) Cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; d) Chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; 5. Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi”.

Những quy định về hạn chế quyền tự do tôn giáo trong luật pháp về tôn giáo của Việt Nam nêu trên hoàn toàn phù hợp, tương thích với luật pháp quốc tế về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Khoản 3, Điều 18 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc (năm 1966) ghi: “Quyền tự do thể hiện tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi những quy định pháp luật và khi những giới hạn này là cần thiết cho việc bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng hoặc những quyền và tự do cơ bản của người khác”(7). Điều đó cũng được Công ước châu Âu về bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do cơ bản thừa nhận tại Điều 9: “Quyền tự do thể hiện tôn giáo, tín ngưỡng của một người chỉ bị luật pháp giới hạn nếu điều đó là cần thiết trong một xã hội dân chủ, phục vụ an ninh công cộng, bảo vệ trật tự trị an, sức khỏe, chuẩn mực đạo đức chung hoặc các quyền và sự tự do của người khác”(8). Luật pháp của nhiều nước trong khi khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cũng chế định quyền ấy sẽ bị hạn chế vì trật tự công cộng, an ninh quốc gia. Nước Pháp là một ví dụ, Luật Phân ly 1905 quy định: “Cộng hòa Pháp bảo đảm tự do tín ngưỡng. Nó bảo đảm quyền tự do hành đạo với những hạn chế vì quyền lợi duy trì trật tự công cộng”(9).

Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là phải có giới hạn, quyền ấy sẽ bị hạn chế vì an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức xã hội, môi trường, chứ không như đòi hỏi vô lý của USCIRF và một số giới chức Mỹ.

Thứ ba, mỗi quốc gia đều có cách thức quản lý hoạt động tôn giáo phù hợp với truyền thống và thực tế của mình, trong đó quản lý hoạt động tôn giáo thông qua con đường đăng ký là một hình thức phổ biến, thích hợp và hiện thực ở nhiều quốc gia (như Pháp, Bun-ga-ri, Ba Lan, Nhật Bản, Nga, Trung Quốc...), trong đó có Việt Nam. Theo đó, mỗi quốc gia có những yêu cầu riêng về điều kiện và thể thức việc đăng ký xem xét tư cách pháp nhân của các tổ chức tôn giáo. Có quốc gia xem việc đăng ký pháp nhân của tổ chức tôn giáo thuộc vấn đề ở cấp quốc gia, như Ba Lan, Nga, I-ta-li-a, Đức, Lat-vi-a; có quốc gia chỉ ở cấp hội đồng tỉnh, thành phố (Bun-ga-ri). Về điều kiện, có sự khác biệt giữa các nước, trong đó yếu tố thời gian tồn tại, số lượng, cơ sở tài sản tôn giáo, nhân sự, khả năng tài chính..., là những tiêu chí cơ bản(10). Việt Nam lựa chọn mô hình quản lý theo hình thức “đăng ký” và phân cấp chủ thể có thẩm quyền cấp đăng ký theo phạm vi hoạt động của tôn giáo là hợp lý và phù hợp với điều kiện Việt Nam.

Luật pháp Việt Nam đưa ra những tiêu chí cụ thể để công nhận tổ chức tôn giáo chứ không phải để cản trở tự do tôn giáo. Theo đó, mọi tôn giáo nếu bảo đảm những điều kiện đó đều được công nhận, khác với một số quốc gia chỉ thừa nhận một số tôn giáo chủ yếu. Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam ngoài những điều kiện về thời gian (giảm từ 23 năm theo Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo xuống còn 5 năm), nhân sự, địa điểm hợp pháp, còn có yêu cầu về hiến chương, điều lệ, tôn chỉ, mục đích... Luật Tín ngưỡng, tôn giáo còn phân cấp quản lý (Trung ương và địa phương) theo phạm vi hoạt động của tổ chức tôn giáo. Bởi lẽ, tổ chức tôn giáo ở Việt Nam rất đa dạng, có tôn giáo phạm vi sinh hoạt trên khắp cả nước, như Phật giáo, Công giáo, Tin lành; có tôn giáo phạm vi hoạt động chỉ trong một khu vực, như Phật giáo Hòa Hảo, Bà-la-môn giáo, có tôn giáo thuộc loại nhóm nhỏ, như Minh sư đạo, Minh lý đạo, Bửu sơn Kỳ hương, Phật giáo Hiếu nghĩa Tà Lơn, Mặc Môn, đạo Baha’i (ở Việt Nam); có tôn giáo có nhiều tổ chức, hệ phái khác nhau, như Cao Đài, Tin lành,... Do đó, cơ chế công nhận và quản lý hoạt động của tổ chức tôn giáo theo hình thức đăng ký theo quy mô hoạt động của tôn giáo là phù hợp với điều kiện thực tế Việt Nam, cũng giống như nhiều quốc gia khác và được luật pháp quốc tế thừa nhận (tính đặc thù). Đó không phải là điều kiện đặt ra để hạn chế hay cản trở quyền tự do tôn giáo như USCIRF hay các thế lực phản động, thù địch xuyên tạc.

Thứ tư, việc dựa vào các nhóm trái pháp luật mang danh nghĩa tôn giáo cực đoan, chưa được chính quyền công nhận, lấy đó làm cơ sở để phê phán “đàn áp tôn giáo” là cách thức mà USCIRF và một số cá nhân, tổ chức thường sử dụng để áp đặt một cách vô lý quan điểm của họ, không chỉ đối với Việt Nam, mà còn đối với nhiều quốc gia trên thế giới. Trên thực tế, nhiều quốc gia có những biện pháp cứng rắn, kiên quyết dẹp bỏ các hiện tượng tôn giáo mới cực đoan để bảo đảm an ninh, trật tự xã hội, như Trung Quốc đối với Pháp luân công; Nga đối với giáo phái Hội anh em trong trắng (The White Brotherhood), nhân chứng Giê-hô-va; Nhật Bản đối với phái Chân lý tối thượng (Aum Shirikyo); kể cả Pháp đối với các giáo phái cực đoan, cũng bị Mỹ xếp vào diện các nước hạn chế quyền tự do tôn giáo.

Các báo cáo của USCIRF và quan điểm sai trái, thù địch chủ yếu dựa vào một số phần tử cực đoan lợi dụng tôn giáo hoạt động chống Nhà nước Việt Nam, bị tòa án phạt tù, lấy đó là những “tù nhân lương tâm” (?!) để quy kết Việt Nam vi phạm nhân quyền, dân chủ, tự do tôn giáo. Trong đó có các đối tượng như: Nguyễn Bắc Truyển (nhóm Phật giáo Hòa Hảo truyền thống, bị tuyên phạt 11 năm); Y Yich (bị kết án 12 năm) - người dân tộc thiểu số theo nhóm Tin lành cực đoan ở Tây Nguyên; Phan Văn Thu (án tù chung thân) - người sáng lập nhóm Ân đàn Đại đạo (Phú Yên),... Đó đều là những phần tử lợi dụng tôn giáo chống Nhà nước Việt Nam nên bị phạt tù theo quy định của Bộ luật Hình sự, chứ không phải các “tù nhân lương tâm”, như USCIRF gán cho.

Những lập luận của PGS, TS. Nguyễn Phú Lợi là rất rõ ràng, khúc triết, phản bác sắc sảo, rành rẽ từng thủ đoạn, luận điệu xuyên tạc vấn đề tự do tôn giáo của Việt Nam, đáng để mỗi chúng ta nghiên cứu, học hỏi, tăng thêm nhận thức, cảnh giác với chiêu trò, thủ đoạn lợi dụng vấn đề tôn giáo để xuyên tạc, chống phá Việt Nam từ trước đến nay.

Chủ Nhật, 30 tháng 7, 2023

USCIRF: công cụ can thiệp dưới vỏ bọc “tự do tôn giáo”!

 


Mới đây, “Ủy ban tự do tôn giáo quốc tế Mỹ” (USCIRF) ra bản phúc trình năm 2023 về tự do tôn giáo tại Việt Nam với những thông tin sai lệch, thậm chí bóp méo sự thật về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam. Báo cáo này lại tiếp tục khuyến nghị BNG Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách quốc gia cần quan tâm đặc biệt (CPC) vì “vi phạm tự do tôn giáo” “nghiêm trọng, có hệ thống và đang tiếp diễn”. Đáng quan ngại hơn, một ủy viên của USCIRF (Frederick Davie) còn phát biểu: “Trong năm 2022, nhà cầm quyền ở Việt Nam đã tăng cường kiểm soát và đàn áp các nhóm tôn giáo, bao gồm người Thượng và người Hmông theo đạo Tin lành, tín đồ Cao Đài Chân truyền, Phật giáo Hòa Hảo độc lập và Giáo hội Phật giáo Thống nhất, đạo Dương Văn Mình và cả Pháp Luân Công”…



Thực tế cho thấy, hầu như năm nào, sau báo cáo mang nặng “định kiến”,  USCIRF đều khuyến nghị Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách “quốc gia cần quan tâm đặc biệt” (CPC).

Thực tế, USCIRF từng đến Việt Nam 05 lần (2002, 2007, 2009, 2015 và 2019). Trong những lần vào Việt Nam, bất chấp khuyến cáo, phản đối của các cơ quan chức năng, USCIRF luôn hoạt động sai chương trình đăng ký; tiếp xúc, gặp gỡ một số tín đồ có thái độ chính trị cực đoan, công khai bày tỏ sẵn sàng tài trợ cho số này thành “ngọn cờ” chống đối, thậm chí khuyến khích họ hoạt động độc lập, thoát ly khỏi chính quyền. Sau mỗi chuyến thăm, USCIRF đều đánh giá thiếu khách quan, xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam và từ năm 2012 đến nay, liên tục khuyến nghị Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách CPC để áp đặt chế tài.


Thông tin USCIRF sử dụng trong báo cáo được thu thập từ các tổ chức phản động bên ngoài (“Ủy ban cứu người vượt biển - BPSOS”, “Bàn tròn đa tôn giáo Việt Nam”, “Người Thượng vì công lý - MSFJ”…) liên kết với số cực đoan chống đối trong nước. Chưa hết, để tạo nên “dàn đồng ca”, cùng lúc với việc USCIRF tung ra báo cáo thì các trang mạng phản động như: “Việt Tân”, RFA, VOA, BPSOS… lại phát tán các bài viết về vấn đề sắc tộc người Tây Nguyên, trong đó có nhiều nội dung sai trái, kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc; cho rằng đa số người dân Tây Nguyên sống trong nghèo nàn, lạc hậu, bị phân biệt đối xử, bị chính quyền bức hại, phải tìm cách để vượt biên, trốn khỏi Việt Nam…


Vấn đề đặt ra, tại sao USCIRF cứ “trò cũ soạn lại” như thế? Dễ hiểu thôi. Với rắp tâm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, họ không thể thừa nhận những thành tựu đổi mới của nhân dân ta và những tiến bộ về tự do tôn giáo ở Việt Nam. Do bị chi phối bởi quan điểm của những thế lực cực hữu trong chính giới Hoa Kỳ, họ chỉ quanh quẩn với những trò cũ mà không vượt qua được “lằn ranh” định kiến với Việt Nam; không căn cứ vào tình hình thực tế về tự do tôn giáo đang diễn ra, mà chỉ dựa vào thông tin của những kẻ bất mãn, chống đối trong nước, các tổ chức phản động lưu vong - những kẻ thường lợi dụng vấn đề “dân chủ, nhân quyền, tôn giáo” để chống phá Việt Nam. Với cách tiếp cận áp đặt, chủ quan, mang nặng tư duy thời chiến tranh lạnh như vậy, USCIRF đang đi ngược lại mối quan hệ 
Đối tác toàn diện và Tầm nhìn chiến lược đang phát triển rất tốt đẹp giữa Việt Nam và Hoa Kỳ!

Thứ Tư, 26 tháng 7, 2023

Đến bao giờ Mỹ mới đánh giá khách quan về tự do tôn giáo ở Việt Nam?

 


Cứ hàng năm, Bộ Ngoại giao Mỹ lại đưa ra các đánh giá về  “tự do tôn giáo” đối với các nước trên thế giới trên cơ sở báo cáo của USCIRF – một tổ chức phi Chính phủ được Mỹ tài trợ. Trong các báo cáo này, Mỹ tự cho mình đóng vai trò “Cảnh sát quốc tế” để giám sát hoạt động của các nước về nhân quyền, tự do tôn giáo. Cuối năm 2022, Bộ Ngoại giao Mỹ lại dựa trên thông tin của USCIRF và các báo cáo của các tổ chức thù địch với Việt Nam, đưa Việt Nam vào cái gọi là “Danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo”. Điều này gây nên những phản ứng của dư luận xã hội Việt Nam về sự thiếu khách quan trong nhìn nhận, đánh giá thực chất vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

Theo cáo buộc của Bộ Ngoại giao Mỹ, Việt Nam cùng 3 nước khác là Algeria, Cộng hòa Trung Phi, Comoros thuộc cái gọi là “Danh sách giám sát đặc biệt về tự do tôn giáo”. Lý do phía Mỹ đưa ra là Việt Nam trong năm 2022 đã “can dự vào hay dung thứ cho những vi phạm nghiêm trọng quyền tự do tôn giáo”. Trước những cáo buộc phi lý này, ngày 15/12/2022, Phó phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng khẳng định: “Việc Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo là dựa trên những đánh giá thiếu khách quan cũng như các thông tin không chính xác về tình hình tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam”.

 


Lý do vì sao Bộ Ngoại giao Mỹ lại đưa ra quyết định sai trái này?

 

Thứ nhất, việc Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo là dựa trên những đánh giá thiếu khách quan, công bằng. Bộ Ngoại giao Mỹ đơn phương đưa ra danh sách để đánh giá một quốc gia có chủ quyền, độc lập như Việt Nam là đi ngược lại quy định Hiến chương của Liên Hợp Quốc (LHQ) năm 1946. Mặt khác, cáo buộc này đã phủ nhận những nỗ lực của Việt Nam khi tham gia vào “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966” mà Việt Nam gia nhập ngày 24/9/1982 với điều 18 cam kết về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng” (khoản 1, Điều 18 Công ước năm 1966).

Thực tế tại Việt Nam, tình hình tự do tôn giáo được khẳng định rõ trong Hiến pháp, pháp luật và được tôn trọng, bảo đảm trên thực tế. Nhiều năm qua, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, trong đó có tín đồ, chức sắc tôn giáo được nâng cao, đã có những bước chuyển biến rất rõ nét, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Đặc biệt với việc Việt Nam 2 lần trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ (nhiệm kỳ 2014-2016 và nhiệm kỳ 2023-2025) với số phiếu bầu cao cho thấy sự tín nhiệm của các nước trên thế giới với cách nhìn nhận đánh giá đúng đắn, công tâm về tiến trình bảo đảm nhân quyền nói chung và quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam nói riêng.

Ngoài ra, những thành tựu gần đây về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam được bạn bè quốc tế ghi nhận như tổ chức thành công 3 lần Đại lễ VESAK LHQ các năm 2008, 2014 và năm 2019; Việt Nam đã cùng với Giáo hội Công giáo hoàn vũ (Vatican) tổ chức 9 vòng đối thoại thường niên để tiến tới xây dựng quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam - Vatican phục vụ lợi ích giữa giáo hội, giáo dân và dân tộc Việt Nam. Đến nay, số lượng các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận là 16 tôn giáo, 43 tổ chức đăng ký hoạt động tôn giáo, nhiều tổ chức tôn giáo mới hình thành đều được các cơ quan, ban, ngành chức năng hướng dẫn tỉ mỉ theo quy định Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2106 đảm bảo tính thống nhất, ổn định và tuân thủ quy định của luật pháp Việt Nam.

Thứ hai, cáo buộc của Bộ Ngoại giao Mỹ dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam. Bộ Ngoại giao Mỹ thường cử các phái đoàn ngoại giao vào Việt Nam để theo dõi, quan sát về tình hình tự do tôn giáo, điều này phù hợp với tinh thần đối thoại, hợp tác lẫn nhau giữa Việt Nam và Mỹ. Tính từ năm 2006 đến nay, phía Mỹ hằng năm thường xuyên cử các phái đoàn hỗn hợp của Bộ Ngoại giao, Quốc hội Mỹ, tổ chức phi chính phủ trực thuộc các cơ quan, ban, ngành của Mỹ đến thăm, tiếp xúc làm việc với các cá nhân, chức sắc, tín đồ và tham dự các hội thảo, hội luận, tọa đàm do chính quyền Việt Nam tổ chức để làm rõ hơn quy cách quản lý nhà nước đối với lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam.

Tuy nhiên, Mỹ thường cử phái đoàn đến thăm gặp, tiếp xúc với cá nhân là chức sắc, tín đồ tôn giáo có những hoạt động vi phạm pháp luật hoặc những hội nhóm chưa đủ điều kiện công nhận về tổ chức tôn giáo theo quy định pháp luật. Đơn cử vào tháng 5 và tháng 10/2022, Bộ Ngoại giao Mỹ đã cử phái đoàn vào Việt Nam để khảo sát tình hình tự do tôn giáo chỉ tiếp xúc với các hội nhóm tôn giáo chưa được công nhận, thường xuyên vi phạm pháp luật như “Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất”, “Pháp luân công”, “Tin lành Đấng Christ các dân tộc Việt Nam”, “nhóm Cao Đài, Hòa Hảo độc lập”, “tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình”… Họ lên tiếng bênh vực những cá nhân vi phạm pháp luật như đối tượng Nguyễn Năng Tĩnh, Lê Đình Lượng, Hồ Đức Hòa… trong Công giáo; đối tượng Nguyễn Trung Tôn, Y Hinnie, A Ga, A Đảo… trong đạo Tin lành; đối tượng Thích Không Tánh, Thích Tuệ Sỹ trong “Phật giáo Việt Nam thống nhất”. Thậm chí, những kẻ cố tình lợi dụng danh nghĩa tín ngưỡng, tôn giáo như đối tượng Lê Tùng Vân tại “Thiền am bên bờ vũ trụ” (còn gọi là Tịnh thất Bồng Lai), tỉnh Long An cũng được phía Mỹ liệt kê vào danh sách cần “quan tâm, bảo vệ”.

Chính từ thu nhận bởi những tiếng nói của các cá nhân, tín đồ vi phạm pháp luật như trên nên phía Bộ Ngoại giao Mỹ đã vin vào đó để quy kết phía Việt Nam đang “đàn áp tự do tôn giáo” và cho rằng, việc xử lý những đối tượng vi phạm pháp luật, phạm tội là “xử lý và đàn áp tôn giáo”. Điều này thể hiện cách nhìn nhận thiếu khách quan và áp đặt tiêu chuẩn tự do tôn giáo của Mỹ đối với Việt Nam.

Thứ ba, sự phát triển lớn mạnh của các tổ chức tôn giáo ở trong nước và liên kết quan hệ quốc tế trong tôn giáo là minh chứng cho thấy tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam đang từng bước hội nhập sâu vào thế giới. Định hướng phát triển của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam có thể thấy rõ thông qua nội dung Hiến chương, điều lệ, quy định của tôn giáo luôn bám sát yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế. Chẳng hạn, Phật giáo luôn kiên định con đường “Đạo pháp dân tộc và chủ nghĩa xã hội”; Công giáo tự hào với quan điểm “sống phúc âm trong lòng dân tộc”; đạo Tin lành với Hiến chương “phụng sự Thiên Chúa, phục vụ Tổ quốc”; đạo Cao Đài với khẩu hiệu “nước vinh - đạo sáng”… đã khơi dậy truyền thống gắn kết giữa tín ngưỡng, tôn giáo với tinh thần tự lực, tự cường, độc lập dân tộc.

Mặt khác, trong xu thế mở cửa hội nhập hiện nay, nhiều tổ chức tôn giáo ở Việt Nam đã vươn mình, khẳng định sự lớn mạnh bằng việc tổ chức các sự kiện hành hương, đại lễ, lễ trọng thu hút sự quan tâm của dư luận quốc tế. Cụ thể: Đại lễ VESAK Phật giáo LHQ năm 2019 diễn ra tại chùa Tam Chúc, Hà Nam đã có hơn 500 phái đoàn quốc tế đến tham dự; lễ hành hương tại La Vang (Quảng Trị), Sở Kiện (Hà Nam) của Công giáo Việt Nam đã thu hút sự tham gia của hàng trăm tổ chức Công giáo trên thế giới đến hành hương, chiêm bái. Những điều này thể hiện rõ tầm ảnh hưởng của các tổ chức tôn giáo Việt Nam đối với sự phát triển kinh tế, xã hội trong nước; đồng thời xây dựng hình ảnh một đất nước Việt Nam có đầy đủ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Thật tiếc khi Bộ Ngoại giao Myx đưa phán xét một chiều trong khi Việt Nam và Mỹ đã xây dựng được cơ chế “Đối thoại Nhân quyền thường niên Hoa Kỳ - Việt Nam” hàng năm nhằm trao đổi, đối thoại giải quyết những vướng mắc, bất đồng xung quanh vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo. Năm 2022, hai nước đã tổ chức cuộc họp Đối thoại nhân quyền tại Mỹ thu được kết quả thành công tốt đẹp, mở ra triển vọng mới về cải thiện nhân quyền tích cực ở Việt Nam trong thời gian tới.

Thế nhưng, Bộ Ngoại giao Mỹ đơn phương đưa Việt Nam vào “Danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo” năm 2022 đã phủ nhận những nỗ lực của Chính phủ hai nước Việt Nam - Hoa Kỳ trong tiến trình tạo niềm tin, củng cố quan hệ ngoại giao.

Những cáo buộc của phía Mỹ khi đưa Việt Nam vào “danh sách cần giám sát đặc biệt về tự do tôn giáo” thực sự chưa thể hiện góc độ tiếp cận tích cực, thiếu căn cứ pháp lý, đi ngược lại những cam kết mà phía Mỹ và Việt Nam đã ký kết, thỏa thuận. Hi vọng rằng trong thời gian tới, phía Bộ Ngoại giao Mỹ sẽ có những đánh giá khách quan, cụ thể, sâu sát và vì lợi ích của các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam để đưa ra những đánh giá, quyết định hữu ích cho quan hệ giữa hai quốc gia, dân tộc.

 

Thứ Ba, 25 tháng 7, 2023

Trò hề: bảo vệ tự do tôn giáo bằng tin giả!


Mang danh, đội lốt "đấu tranh cho tự do tôn giáo" để xuyên tạc, đưa tin sai sự thật, bịa đặt, vu cáo chính quyền Việt Nam nhằm hạ uy tín Việt Nam trên  trường quốc tế, vận động  các nước phương Tây can thiệp vào nội bộ Việt Nam là chiêu trò quen thuộc của các cá nhân, hội nhóm chống cộng cờ vàng .

Lấy ví dụ tiêu biểu như ngày 24/7/2023, Nguyễn Văn Đài đã đăng lên trang Facebook cá nhân một status có nội dung: “Lộ ra chùa Ba Vàng là nơi làm kinh tài cho Bộ tài chính Việt cộng khi 2 bên tranh cãi về số tiền phải nộp”. Đài là thành viên của tổ chức chống cộng Việt Tân, là người sáng lập tổ chức “Hội Anh em Dân chủ”, và cũng là người mà phương Tây thường tham khảo để đánh giá tình hình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam. Nhưng bình luận vừa nêu của Đài cho thấy những thông tin mà anh ta đưa có lẽ không hơn thứ tin đồn nhảm.

Trước hết, Bộ Tài chính và chùa Ba Vàng không “tranh cãi về số tiền phải nộp”, mà là việc chùa Ba Vàng chưa có báo cáo thu, chi tiền công đức. Vấn đề này đã được Bộ Tài chính nêu ra hôm 23/07, khi có kết quả của đợt thí điểm kiểm tra việc quản lý tiền công đức tại các di tích lịch sử – văn hóa, đình chùa trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh, giai đoạn năm 2022 và 4 tháng đầu năm 2023. Trong đợt thí điểm này, đối tượng phải báo cáo không chỉ mỗi chùa Ba Vàng, mà gồm những 450 di tích lịch sử – văn hóa trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Nội dung kiểm tra bao gồm toàn bộ việc tiếp nhận, quản lý, ghi chép, kiểm đếm, mở tài khoản, và chi tiêu các khoản tiền công đức, tiền tài trợ ở 450 di tích vừa nêu. Đợt thí điểm này tạo tiền đề để tiến hành kiểm tra các di tích trên toàn quốc.

Bộ Tài chính yêu cầu các di tích vừa nêu báo cáo thu chi, chứ không phải nộp tiền như Nguyễn Văn Đài mô tả. Vậy vì sao các di tích lịch sử – văn hóa cần báo cáo thu chi? Trong 4 tháng đầu năm 2023, tổng số thu tiền công đức, tài trợ tại các di tích trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh là 61 tỷ đồng (không bao gồm các khoản công đức, tài trợ bằng hiện vật, công trình xây dựng), gần bằng số thu cả năm 2022, nhưng tổng số chi là 29,4 tỷ đồng. Chỉ nhìn vào khoản chênh lệch này, ta cũng thấy rõ sự cần thiết phải hạch toán thu chi đầy đủ để tránh thất thoát, lãng phí.

Sự cần thiết của đợt kiểm tra còn thể hiện qua các con số của Yên Tử – điểm du lịch sinh thái tâm linh nổi tiếng, mỗi năm đón trên 2 triệu lượt du khách. Nhìn con số thống kê của Yên Tử, đoàn kiểm tra đã đặt ra nghi vấn kê sai. Cụ thể, số thu tiền công đức năm 2022 của Yên Tử là 3,7 tỷ đồng, chỉ tương đương số thu tại Khu di tích lịch sử Bạch Đằng (3,3 tỷ đồng), thấp hơn so với số thu tại đền Thánh Mẫu – di tích cấp tỉnh ở phường Trà Cổ, Móng Cái (5,8 tỷ đồng) và chưa bằng 1/5 số thu tại đền Cửa Ông (20,1 tỷ đồng). Từ năm 2007 đến tháng 04/2023, tổng thu tiền trong hòm công đức của Yên Tử là 287 tỷ đồng, tổng chi khoảng 638 tỷ đồng. Nhìn vào con số thu chi này, khả năng ban quản lý khu di tích Yên Tử đã kê khai thiếu, sót.

Nếu hoạt động thu chi tiền công đức ở các di tích lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng không được quản lý nghiêm ngặt, thì tham nhũng tất yếu xảy ra. Khi đó, sinh hoạt tín ngưỡng ở di tích sẽ ảnh hưởng xấu đến đời sống tinh thần của xã hội, nghĩa là trở nên phản tác dụng, đi ngược với vai trò chính đáng mà người ta nên gán cho nó. Đợt kiểm tra của Bộ Tài chính là hoàn toàn hợp lý, hợp tình. Thật khó hiểu vì sao trong mắt Nguyễn Văn Đài, một hoạt động như vậy có thể bị xem là vi phạm quyền tự do tôn giáo, lợi dụng tôn giáo.

Trên fanpage của Việt Tân, ta có thể bắt gặp một ví dụ khác. Việt Tân lu loa rằng chính quyền thành phố Sapa đang “bách hại” các sinh hoạt tôn giáo ở nhà thờ Sapa, chỉ vì họ cho đặt ở phía đối diện nhà thờ một số màn hình đèn led lớn. Nhưng nếu tìm hiểu, người ta sẽ thấy khoảng đất đặt đèn led không phải là đất của nhà thờ, mà là quảng trường chính của Sapa, nơi khách du lịch thường ghé qua. Các màn hình đèn led cũng không có nội dung tuyên truyền chính trị, mà chứa nội dung xúc tiến du lịch, nhiều cái trong số đó do doanh nghiệp cung cấp dịch vụ du lịch tài trợ. Như vậy, dù các màn hình đèn led đã gây ảnh hưởng đến mỹ quan và sinh hoạt tôn giáo ở nhà thờ, rõ ràng đây không phải là một vụ “bách hại tôn giáo”. mà là một tranh chấp kinh tế – dân sinh. Việt Tân đã bóp méo bản chất của vụ việc để làm dày thêm hồ sơ nhân quyền trình phương Tây, cũng như lượng tiền tài trợ mà phương Tây dành cho họ. Cách làm này của họ không giúp gì cho nhân quyền, mà chỉ khoét sâu thêm những mâu thuẫn giữa người với người mà họ muốn lợi dụng.

Thứ Ba, 11 tháng 7, 2023

Không thể phán xét vấn đề tôn giáo Việt Nam bằng “định kiến”

 


 

 Do tư tưởng định kiến với Việt Nam, các thế lực phản động, thù địch ở trong nước và ngoài nước, trong đó có Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) luôn luôn xuyên tạc trắng trợn về tình hình tôn giáo tại Việt Nam. USCIRF vẫn thường xuyên sử dụng thông tin, tài liệu cũ, không chính xác từ các nhóm, phái tôn giáo chưa được nhà nước công nhận cùng số chức sắc cực đoan bất mãn với chế độ, định kiến với Đảng, Nhà nước để đưa vào các báo cáo thường niên về tự do tôn giáo toàn cầu, phê phán việc thực hiện quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam và khuyến nghị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào danh sách các nước cần theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo. Họ tự cho mình quyền được khuyến khích, cổ vũ các hoạt động tôn giáo trái pháp luật, không cần xin phép, đăng ký chính quyền, thúc đẩy các hoạt động “tà đạo, đạo lạ” ở các vùng sâu, vùng xa, gia tăng hoạt động mê tín dị đoan, trái thuần phong mỹ tục, trái pháp luật, gây bức xúc trong xã hội và nhân dân. Họ xuyên tạc rằng “cả Hiến pháp và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam đều có những quy định nhằm hạn chế quyền tự do tôn giáo”(!). Họ cho rằng “Luật tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam bao gồm: các điều khoản mơ hồ cho phép tự do tôn giáo vì lợi ích an ninh quốc gia và đoàn kết xã hội là “bước thụt lùi”, “bóp nghẹt tôn giáo” không phù hợp với công ước quốc tế về quyền con người”(!). Họ lợi dụng triệt để quan điểm “quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật” để cho rằng “tự do tôn giáo của Việt Nam chỉ là hình thức”(!). Họ dựa vào việc các tổ chức đội lốt tôn giáo, có những hoạt động vi phạm pháp luật, như: tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình (Tây Bắc), Hà Mòn (Tây Nguyên), tịnh thất Bồng Lai (Long An),… bị chính quyền xử lý để vu khống Việt Nam “vi phạm tự do tôn giáo, cấm đoán tôn giáo, đàn áp tôn giáo”, v.v.



 

Thứ nhất, luật pháp về tôn giáo Việt Nam tương thích, phù hợp luật pháp quốc tế về tín ngưỡng, tôn giáo.

 

Hiến pháp Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không đưa ra giới hạn nào về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mà chỉ nghiêm cấm “xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Cụ thể hóa nội dung này, Điều 5, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 đã quy định các hành vi bị nghiêm cấm: “(1). Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; (2). Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo; (3). Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo; (4). Hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo mà: (a). Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường; (b). Xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe, tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; (c). Cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; (d). Chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo; chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; (5). Lợi dụng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi”. Những quy định trên hoàn toàn tương thích với các văn bản quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Trong luật pháp quốc tế cũng như luật pháp của các quốc gia, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải là tự do tuyệt đối, tự do vô chính phủ.

 

Tự do tín ngưỡng, tôn giáo phải tôn trọng và không ảnh hưởng đến quyền tự do của người khác và đặc biệt không được ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự công cộng, môi trường, đạo đức xã hội. Chính vì vậy, để bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và ổn định, phát triển xã hội, Khoản 3, Điều 18, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc (năm 1966) đã nhấn mạnh: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi những quy định pháp luật và các giới hạn này là cần thiết cho việc bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng hoặc những quyền và tự do cơ bản của người khác”1. Điều 9, Công ước châu Âu về bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do cơ bản cũng khẳng định: “Quyền tự do thể hiện tôn giáo, tín ngưỡng của một người chỉ bị luật pháp giới hạn nếu điều đó là cần thiết trong một xã hội dân chủ, phục vụ an ninh công cộng, bảo vệ trật tự trị an, sức khỏe, chuẩn mực đạo đức chung hoặc các quyền và sự tự do của người khác”2. Luật Phân ly 1905 của nước Pháp cũng quy định: “Cộng hòa Pháp bảo đảm tự do tín ngưỡng. Nó bảo đảm quyền tự do hành đạo với những hạn chế vì quyền lợi duy trì trật tự công cộng”3. Như vậy, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo là phải có giới hạn, quyền ấy sẽ bị hạn chế vì an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức xã hội, môi trường, chứ không như những đòi hỏi vô lý của các thế lực phản động, thù địch, không thân thiện với chế độ chính trị ở Việt Nam.

 

Thứ hai, lợi dụng tôn giáo vi phạm pháp luật thì ở nước nào đều bị xử lý.

 

 Hẳn chúng ta còn nhớ, năm 2012, cảnh sát Mỹ đã bắt giữ 07 thành viên nhóm Hutaree (Hu-ta-ri) tự xưng là “chiến binh Thiên chúa giáo” vì có âm mưu chống lại chính quyền; còn tháng 7/2018, Tòa án Tối cao Nhật Bản đã thi hành án tử hình đối với 06 thành viên giáo phái “Ngày tận thế” (Aum Shinrikyo) cùng thủ lĩnh là Giáo chủ Shoko Asahara do gây ra vụ tấn công bằng chất độc sarin năm 1995 nhằm vào hệ thống tàu điện ngầm Tokyo và các tội ác khác. Điều đó cho thấy, ở bất cứ quốc gia nào, ai lợi dụng quyền tự do tôn giáo để vi phạm pháp luật thì cũng đều bị trừng trị; ở Việt Nam không có “tù nhân tôn giáo”, “tù nhân lương tâm” như các thế lực phản động, thù địch rêu rao, mà chỉ có những người lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để tiến hành các hoạt động vi phạm pháp luật mới bị xử lý.

 

Thứ ba, hiện thực là minh chứng phản bác rõ ràng nhất.

 

 Những năm qua, ở Việt Nam, nhờ có chủ trương, chính sách, pháp luật về tôn giáo ngày càng được hoàn thiện và được thực hiện nhất quán trong thực tiễn, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân ngày càng phong phú; số lượng chức sắc, tín đồ, cơ sở thờ tự ngày càng tăng, quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân ngày càng được đảm bảo tốt hơn. Nếu năm 2003, cả nước có 15 tổ chức thuộc 06 tôn giáo với 17 triệu tín đồ, khoảng 20.000 cơ sở thờ tự, 34.000 chức sắc, 78.000 chức việc, thì năm 2022, Nhà nước đã công nhận 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo với 26,7 triệu tín đồ, 55.000 chức sắc, 135.000 chức việc, trên 29.000 cơ sở thờ tự, v.v. Nhiều lễ hội lớn trong các tôn giáo đã thu hút hàng vạn tín đồ nhân dân tham dự, nổi bật như: tháng 12/2017, Giáo hội Tin lành tổ chức thành công Lễ kỷ niệm 500 năm cải chánh đạo Tin lành; tháng 7/2019, Giáo hội Công giáo tổ chức Tổng hội Dòng Đa Minh thế giới tại Đồng Nai, với đại biểu của hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia; Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tổ chức thành công 03 Đại lễ Phật đản Vesak Liên hợp quốc (năm 2008, 2014, 2019), riêng năm 2019 tổ chức tại chùa Tam Chúc (tỉnh Hà Nam) đã thu hút sự tham dự của trên 3.000 đại biểu chính thức (trong đó có 570 đoàn quốc tế với 1.650 đại biểu đến từ 112 quốc gia và vùng lãnh thổ). Với quy mô hoạt động tôn giáo hàng vạn người, chính quyền các cấp đã hỗ trợ các tôn giáo về các phương án đảm bảo an toàn giao thông, an ninh trật tự, phòng chống cháy nổ, an toàn vệ sinh thực phẩm để nhân dân được tự do hành lễ, thoả mãn nhu cầu đời sống tâm linh, v.v.

Công tác đào tạo chức sắc được các tổ chức tôn giáo đẩy mạnh. Trước năm 1990, cả nước có 06 cơ sở đào tạo tôn giáo, đến năm 2021 đã tăng lên thành 63 cơ sở đào tạo, mỗi năm có hàng nghìn người tốt nghiệp; ngoài ra, còn có hàng trăm người đang du học tại nước ngoài. Nhờ vậy, số chức sắc, nhà tu hành tăng rất nhanh, cơ bản đáp ứng được nhu cầu hướng dẫn việc đạo cho tín đồ. Các hoạt động phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc, chức việc; các hoạt động thành lập tổ chức tôn giáo trực thuộc; sửa đổi hiến chương, điều lệ; đăng ký chương trình hoạt động hằng năm,... của các tôn giáo cũng được thực hiện thuận lợi theo đúng quy định của pháp luật.

Việc in ấn, xuất bản, dịch thuật một khối lượng lớn kinh sách, đồ dùng việc đạo được các tôn giáo đẩy mạnh trong những năm qua. Theo báo cáo quốc gia về thực hiện quyền con người ở Việt Nam theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ III (năm 2019), cả nước có hơn 3.000 đầu ấn phẩm tôn giáo được xuất bản với hơn 10 triệu bản in và hàng triệu đĩa CD, DVD bằng nhiều ngôn ngữ (trong đó có nhiều kinh sách được dịch ra tiếng dân tộc thiểu số, như Ba-na, Ê-đê, Gia-rai), 12 báo, tạp chí liên quan đến tôn giáo; phần lớn các tổ chức tôn giáo đều có website riêng.

Công tác xây dựng, sửa chữa, chỉnh trang cơ sở thờ tự của các tôn giáo cũng được quan tâm đẩy mạnh trong những năm qua. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng cơ sở hoạt động của các tổ chức tôn giáo, chính quyền các địa phương đã quan tâm giải quyết, cấp đất cho các tổ chức tôn giáo. Theo Thứ trưởng Bộ Nội vụ Vũ Chiến Thắng, trong 10 năm (2012 - 2022) thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp hàng trăm héc ta đất để xây dựng cơ sở thờ tự, như: Thành phố Hồ Chí Minh đã giao 7.500 m2 đất cho Tổng Liên hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) xây dựng Viện thành kinh thần học; tỉnh Đắk Lắk giao hơn 11.000 m2 đất cho Tòa Giám mục Buôn Ma Thuột; Thành phố Đà Nẵng giao hơn 9.000 m2 đất cho Tòa Giám mục Đà Nẵng; tỉnh Quảng Trị giao thêm 15 héc ta cho Giáo xứ La Vang, v.v.

 

Những thành tựu đó không chỉ nhân dân trong nước, trong đó có tín đồ các tôn giáo ghi nhận, mà còn được cả cộng đồng quốc tế thừa nhận. Việc Việt Nam lần thứ hai trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025 với số phiếu ủng hộ của 145/189 nước đã một lần nữa khẳng định quyền con người nói chung, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân ở Việt Nam nói riêng được bảo đảm tốt, không thể phủ nhận.

 

Do vậy, những nhận định thiếu khách quan, không đúng với thực tế tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam sẽ không bao giờ có giá trị, mà chỉ làm tổn hại cho quan hệ đối tác toàn diện giữa hai nước Việt Nam và Mỹ, cần phải được vạch trần, phê phán, bác bỏ.