Thứ Năm, 17 tháng 10, 2024

Những luận điệu sai lệch của Nguễn Đình Thắng và tổ chức tài trợ khủng bố BPSOS về nạn buôn người ở Việt Nam

 

Ngày 24/6/2024, Bộ Ngoại giao Mỹ công bố phúc trình buôn người 2024 của Việt Nam dài 21 trang, theo đó Việt Nam chỉ còn bị xếp hạng Cấp độ 2 (Tier 2) và không còn nằm trong danh sách bị ‘theo dõi’ nữa. Điều này thể hiện sự công nhận của Mỹ đối với những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong đấu tranh phòng chống buôn bán người. Tuy nhiên, nhiều đối tượng phản động, cực đoan vẫn không ngừng tuyên truyền, xuyên tạc, cố tình lợi dụng tình hình tội phạm mua, bán người diễn biến phức tạp để xuyên tạc chủ trương bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Nổi lên là tổ chức tài trợ khủng bố “Ủy ban cứu người vượt biển - BPSOS” đã tham gia buổi điều trần, xuyên tạc “các con số Việt Nam cung cấp đều bỏ ra ngoài các trường hợp buôn người dưới chương trình xuất khẩu lao động do nhà nước quản lý”, “các nạn nhân của họ khi về nước không nhận được bất kỳ sự giúp đỡ nào; thậm chí có người còn bị đe dọa, bị cấm không được cung cấp thông tin cho Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ hay các cơ quan Liên Hợp quốc”… Đây rõ ràng là những lời lẽ sai lệch, chống phá cực đoan của một tổ chức tự nhận là tổ chức phi chính phủ hoạt động khách quan và độc lập.



Ủy ban cứu người vượt biển hay Ủy ban Cứu trợ Thuyền nhân (BPSOS) thành lập năm 1980 tại Carlifornia (Mỹ) bởi nhóm sĩ quan quân đội Việt Nam cộng hoà, với danh nghĩa là một tổ chức phi chính phủ hoạt động trên lĩnh vực “cứu trợ thuyền viên”, “người tị nạn”, “chống buôn người”. Năm 1990, Nguyễn Đình Thắng (sinh năm 1958, quốc tịch Mỹ) tiếp nhận điều hành BPSOS đã tích cực hướng lái hoạt động của tổ chức đi sâu vào các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”, chống phá Việt Nam quyết liệt ở cả trong và ngoài nước. Chúng sử dụng vỏ bọc là một tổ chức phi chính phủ hoạt động với mục đích “từ thiện, trợ giúp người tị nạn”, song quá trình hoạt động BPSOS thể hiện rõ bản chất là một tổ chức phản động, tài trợ khủng bố Nhà nước CHXHCN Việt Nam, trong đó có nhiều bằng chứng đã chỉ ra, Nguyễn Đình Thắng và BPSOS đã tài trợ, chỉ đạo Y Quynh Bdap và tổ chức “Người Thượng vì công lý MSFJ” tại Mỹ chỉ đạo vụ tấn công khủng bố tàn bạo tại Đắk Lắk ngày 11/6 năm ngoái. BPSOS cũng thường xuyên cấu kết với các tổ chức phản động lưu vong ở bên ngoài, móc nối các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, nhận nguồn tiền hỗ trợ khổng lồ (có cả từ ngân sách Mỹ) xây dựng các kế hoạch hoạt động với mưu đồ “chuyển hóa nền dân chủ Việt Nam” theo mô hình phương Tây. Thời gian gần đây chúng còn lôi kéo, tập hợp lực lượng là người dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên thực hiện cái gọi là “Đề án Đại sách lược Tây Nguyên” để huấn luyện, đào tạo, xây dựng “ngọn cờ” tiến hành các hoạt động chống phá Việt Nam, nhằm chuyển hóa thể chế chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hoạt động trọng tâm của BPSOS là đi vận động các chính khách cực hữu, tham gia điều trần trước Quốc hội Mỹ và các nước tư bản phương Tây, cung cấp thông tin, nguồn dữ liệu không đầy đủ, chắp vá hoặc thiếu chính xác đã đưa ra những đánh giá thiếu khách quan hoặc hoàn toàn sai lệch về tình hình dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, dân tộc hoặc ở đây là thông tin về tình trạng buôn người tại Việt Nam, cho rằng Việt Nam không đáp ứng các tiêu chuẩn để loại bỏ nạn mua, bán người và không có các nỗ lực để đáp ứng tiêu chuẩn này.  

Trên thực tế, mặc cho những luận điệu xuyên tạc, theo Báo cáo báo cáo tình hình buôn người năm 2024 của Mỹ về Việt Nam cũng đã thừa nhận Việt Nam đã và đang đẩy mạnh thực hiện các biện pháp phòng, chống buôn người với sự tập trung cao độ của tất cả bộ, ngành và địa phương: “Những nỗ lực này bao gồm việc trình dự thảo Luật phòng, chống mua bán người (sửa đổi) năm 2011 lên cơ quan lập pháp để xem xét; tăng cường điều tra, truy tố và kết án các đối tượng tội phạm nghi ngờ có hành vi mua bán người; xác định và hỗ trợ nhiều nạn nhân bị mua bán hơn; cũng như hồi hương và hỗ trợ 4.100 nạn nhân có nguy cơ bị dụ dỗ tham gia các hoạt động lừa đảo trực tuyến ở các nước láng giềng”. Những thông tin trong bản báo cáo này được đưa ra dựa trên những tài liệu và số liệu từ Việt Nam đã chứng minh cho luận điệu của BPSOS “các con số Việt Nam cung cấp đều bỏ ra ngoài các trường hợp buôn người dưới chương trình xuất khẩu lao động do nhà nước quản lý”, “các nạn nhân của họ khi về nước không nhận được bất kỳ sự giúp đỡ nào; thậm chí có người còn bị đe dọa, bị cấm không được cung cấp thông tin cho Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ hay các cơ quan Liên Hợp quốc”… là hoàn hoàn vu cáo, “cãi cùn”. Nếu các thông tin do Việt Nam đưa ra không xác thực, không đời nào Mỹ có thể thừa nhận được, cũng không thể nào chấp nhận đưa Việt Nam ra khỏi danh sách “theo dõi” về buôn người.

Tóm lại, những nỗ lực của Việt Nam về bảo đảm quyền con người nói chung, bảo vệ quyền của các nạn nhân của tội phạm mua, bán người nói riêng là không thể phủ nhận, nhiều tổ chức quốc tế và các quốc gia trên thế giới đã cộng nhận và đánh giá cao. Trên thực tế, dù còn nhiều vấn đề cần bàn cãi, trao đổi, ngay cả nhiều đánh giá trong Báo cáo tình hình mua, bán người trên thế giới (TIP) 2024 của Bộ Ngoại giao Mỹ được công bố tháng 6/2024 vẫn chưa thật sự khách quan, nhưng việc điều chỉnh trong xếp hạng, đánh giá Việt Nam trong TIP đã buộc phải ghi nhận những kết quả tích cực mà Việt Nam đã đạt được. Trong bối cảnh hiện nay, công tác đấu tranh phòng ngừa và loại bỏ tội phạm mua, bán người rất cấp bách và gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Việc của chúng ta là ngoài tham gia tích cực vào những yêu cầu, hướng dẫn của lực lượng chức năng trong phòng, chống nạn buôn người; đồng thời cũng cần nâng cao cảnh giác, phê phán các luận điệu xuyên tạc của các đối tượng phản động, đặc biệt là các tổ chức chống Đảng, Nhà nước quyết liệt như BPSOS nhằm tăng tình đoàn kết của toàn dân trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

 

 

 

Phản bác nhận định về thiếu sót trong công tác xác định và hỗ trợ nạn nhân bị bóc lột lao động ở Việt Nam

 


Mặc dù mang tiếng là chuyên theo dõi, đánh giá về tình hình buôn người toàn cầu và chấm điểm các quốc gia rồi tự chế tài chính sách chính trị, kinh tế đối với các quốc gia đó, nhưng cách làm báo cáo TIP hàng năm của Bộ Ngoại giao Mỹ đầy rẫy những vấn đề cần bình phẩm, gây bức xúc cho dư luận.

Trong báo cáo TIP 2024, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã nêu lên quan ngại rằng các cơ quan chức năng của Việt Nam "không chủ động xác định nạn nhân bị bóc lột lao động trong các đường dây lừa đảo trên mạng là nạn nhân của tội phạm mua bán người, cũng như không cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho những nạn nhân này". Mặc dù báo cáo này đã chỉ ra một số khó khăn trong công tác xác định và hỗ trợ nạn nhân tại Việt Nam, nhưng cần nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện và khách quan hơn.



Việt Nam đã thiết lập một khung pháp lý toàn diện và cụ thể để phòng chống buôn bán người, bao gồm việc xác định và hỗ trợ nạn nhân của lao động cưỡng bức trong các đường dây lừa đảo trên mạng. Luật Phòng, chống mua bán người và các văn bản hướng dẫn thi hành đã quy định rõ ràng về quy trình xác định nạn nhân và các biện pháp hỗ trợ sau khi nạn nhân được xác định.

Ngoài ra, các cơ quan chức năng cũng đã xây dựng và triển khai các quy trình sàng lọc nạn nhân, bao gồm việc thu thập thông tin, phân tích dấu hiệu và xác minh tình trạng của các cá nhân có dấu hiệu bị buôn bán người. Quy trình này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng và các tổ chức phi chính phủ, nhằm đảm bảo tính chính xác và hiệu quả.

Việt Nam đã chủ động hợp tác với các tổ chức quốc tế và phi chính phủ trong công tác xác định và hỗ trợ nạn nhân bị bóc lột lao động trong các đường dây lừa đảo trên mạng. Sự phối hợp này không chỉ giúp nâng cao năng lực xác định nạn nhân mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cần thiết.

Các tổ chức phi chính phủ đã đóng góp tích cực trong việc tư vấn, hỗ trợ pháp lý, và cung cấp các dịch vụ tái hòa nhập cho nạn nhân. Chính phủ Việt Nam đã tạo điều kiện để các tổ chức này hoạt động hiệu quả, đồng thời đảm bảo rằng nạn nhân nhận được sự hỗ trợ đầy đủ và kịp thời.

Các đường dây lừa đảo trên mạng ngày càng trở nên phức tạp, khiến cho việc nhận diện các trường hợp bóc lột lao động trở nên khó khăn hơn. Mặc dù có những thách thức nhất định, các cơ quan chức năng của Việt Nam vẫn không ngừng nỗ lực để cải thiện quy trình nhận diện và xử lý các trường hợp này.

Việc xác định một cá nhân là nạn nhân của lao động cưỡng bức đòi hỏi một quá trình sàng lọc kỹ lưỡng và cần sự tham gia của nhiều bên liên quan. Trong bối cảnh này, việc có một quy trình phức tạp và đòi hỏi sự tham gia của nhiều cơ quan là cần thiết để đảm bảo rằng các nạn nhân thực sự được bảo vệ.

Việt Nam đã triển khai nhiều biện pháp hỗ trợ nạn nhân bị bóc lột lao động, bao gồm hỗ trợ tài chính, y tế, pháp lý và tâm lý. Các nạn nhân được cung cấp các dịch vụ hỗ trợ một cách toàn diện để giúp họ tái hòa nhập cộng đồng và tránh nguy cơ bị lạm dụng lần nữa.

Các tổ chức phi chính phủ cũng đã phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng để cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho nạn nhân, bao gồm cả những nạn nhân nước ngoài. Điều này cho thấy rằng Việt Nam đã và đang nỗ lực hết mình để bảo vệ quyền lợi của các nạn nhân, bất kể quốc tịch hay nguồn gốc của họ.

Chính phủ Việt Nam đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực cho cán bộ trong việc nhận diện và hỗ trợ nạn nhân của lao động cưỡng bức. Các khóa đào tạo và hội thảo đã được tổ chức thường xuyên để trang bị cho cán bộ những kỹ năng cần thiết trong công tác này.

Ngoài ra, Việt Nam cũng đã phối hợp với các đối tác quốc tế để học hỏi và áp dụng những kinh nghiệm tốt nhất từ các quốc gia khác trong công tác chống buôn bán người. Điều này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả của các biện pháp phòng chống mà còn tạo ra sự linh hoạt trong việc xử lý các tình huống phức tạp như lao động cưỡng bức trong các đường dây lừa đảo trên mạng.

Những nhận định trong báo cáo TIP 2024 đã nêu ra một số vấn đề mà Việt Nam đang đối mặt trong công tác xác định và hỗ trợ nạn nhân bị bóc lột lao động trong các đường dây lừa đảo trên mạng. Tuy nhiên, cần nhìn nhận một cách khách quan và toàn diện hơn về những nỗ lực và thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trong lĩnh vực này. Với cam kết mạnh mẽ từ phía Chính phủ và sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế, Việt Nam đang từng bước cải thiện quy trình xác định nạn nhân và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ một cách hiệu quả hơn.

Phản bác nhận định về sự thiếu chủ động của Việt Nam trong xác định và hỗ trợ nạn nhân bị bóc lột lao động trong các đường dây lừa đảo trên mạng

 

Mặc dù mang tiếng là chuyên theo dõi, đánh giá về tình hình buôn người toàn cầu và chấm điểm các quốc gia rồi tự chế tài chính sách chính trị, kinh tế đối với các quốc gia đó, nhưng cách làm báo cáo TIP hàng năm của Bộ Ngoại giao Mỹ đầy rẫy những vấn đề cần bình phẩm, gây bức xúc cho dư luận.

Trong báo cáo TIP 2024 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, có nhận định rằng các cơ quan chức năng của Việt Nam "không chủ động xác định nạn nhân bị bóc lột lao động trong các đường dây lừa đảo trên mạng là nạn nhân của tội phạm mua bán người, cũng như không cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho những nạn nhân này". Tuy nhiên, khi nhìn vào thực tế và các nỗ lực của Việt Nam, nhận định này chưa phản ánh đầy đủ và chính xác tình hình.



Việt Nam đã và đang đối mặt với các thách thức từ những đường dây lừa đảo trên mạng, đặc biệt là những đường dây liên quan đến lao động cưỡng bức và buôn bán người. Chính phủ Việt Nam đã triển khai nhiều biện pháp nhằm nhận diện và hỗ trợ các nạn nhân của những đường dây này.

Trong những năm gần đây, các cơ quan chức năng đã tăng cường đào tạo cho cán bộ về kỹ năng nhận diện các dấu hiệu của lao động cưỡng bức và buôn bán người, đặc biệt là trong các trường hợp phức tạp như lừa đảo trên mạng. Hơn nữa, Việt Nam cũng đã hợp tác chặt chẽ với các tổ chức quốc tế và phi chính phủ để nâng cao khả năng xác định nạn nhân và cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cần thiết.

Thực tế cho thấy, Việt Nam đã xử lý nhiều vụ việc liên quan đến lao động cưỡng bức trong các đường dây lừa đảo trên mạng. Các cơ quan chức năng đã điều tra và truy tố các cá nhân và tổ chức liên quan, đồng thời tiến hành các biện pháp bảo vệ và hỗ trợ cho các nạn nhân.

Đặc biệt, trong các trường hợp có liên quan đến người nước ngoài, Việt Nam đã hợp tác với các nước đối tác để đảm bảo rằng các nạn nhân được xác định và hỗ trợ một cách nhanh chóng và hiệu quả. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong nước và các tổ chức quốc tế đã giúp nâng cao hiệu quả trong công tác phòng chống buôn bán người và lao động cưỡng bức.

Các tổ chức phi chính phủ và quốc tế đã đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ Việt Nam trong công tác xác định và bảo vệ nạn nhân của các đường dây lừa đảo trên mạng. Họ đã cung cấp các dịch vụ tư vấn, hỗ trợ pháp lý và tài chính cho các nạn nhân, đồng thời hợp tác chặt chẽ với các cơ quan chức năng để đảm bảo rằng các nạn nhân nhận được sự bảo vệ và hỗ trợ tối đa.

Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức phi chính phủ tham gia vào quá trình xác định và hỗ trợ nạn nhân. Điều này cho thấy cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền lợi của các nạn nhân và đối phó với các thách thức từ các đường dây lừa đảo trên mạng.

Báo cáo TIP 2024 cũng đề cập đến việc các nhân viên ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài "thiếu hiểu biết về vấn đề lao động cưỡng bức trong các đường dây hoạt động lừa đảo trên mạng". Tuy nhiên, thực tế là Việt Nam đã nỗ lực nâng cao năng lực cho các cán bộ ngoại giao trong việc nhận diện và hỗ trợ nạn nhân của lao động cưỡng bức.

Các khóa đào tạo và hội thảo đã được tổ chức để trang bị cho cán bộ ngoại giao những kiến thức cần thiết trong việc nhận diện các dấu hiệu của lao động cưỡng bức và buôn bán người, đặc biệt là trong bối cảnh phức tạp như các đường dây lừa đảo trên mạng. Đồng thời, các cơ quan ngoại giao Việt Nam cũng đã phối hợp chặt chẽ với các tổ chức quốc tế và nước sở tại để hỗ trợ nạn nhân một cách hiệu quả nhất.

Một trong những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt là vấn đề kinh phí cho các dịch vụ hỗ trợ nạn nhân. Tuy nhiên, Chính phủ đã có những bước đi quan trọng nhằm đảm bảo rằng các tỉnh, thành phố có đủ nguồn lực để hỗ trợ nạn nhân một cách hiệu quả.

Việt Nam đã và đang xây dựng các chính sách và chương trình nhằm huy động nguồn lực từ nhiều kênh khác nhau, bao gồm cả sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế và phi chính phủ, để đảm bảo rằng các nạn nhân nhận được sự bảo vệ và hỗ trợ đầy đủ.


 

Thứ Tư, 16 tháng 10, 2024

Mỹ đã công nhận những nỗ lực của Việt Nam về phòng, chống nạn buôn người và đưa Việt Nam ra khỏi danh sách ‘theo dõi’ về buôn người

 


Cuối tháng 6 vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố báo cáo phúc trình buôn người 2024, theo đó Việt Nam chỉ còn bị xếp hạng Cấp độ 2 (Tier 2) và không còn nằm trong danh sách bị ‘theo dõi’ nữa (Tier 3).  Theo báo cáo “Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực tổng thể hơn so với kỳ báo cáo trước; do đó Việt Nam được nâng cấp lên Nhóm 2”.



 Những nỗ lực của Việt nam trong xóa bỏ nạn buôn người được phía Mỹ công nhận, nổi lên là:

Thứ nhất, Việt Nam tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật nhằm phòng, chống mua bán người. Theo đó, dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) do Bộ Công an chủ trì xây dựng sẽ được trình Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp thứ VIII vào diễn ra từ ngày 21/10 - 30/11/2024 tới đây. Dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) đã thể hiện rõ tính ưu việt, tính nhân văn, tiến bộ trong bảo vệ quyền con người so với pháp luật hiện hành cũng như đảm bảo phù hợp với quy định pháp luật Việt Nam và quốc tế. Dự thảo Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) gồm 8 chương, 65 điều. So với Luật Phòng, chống mua bán người, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung 55 điều, xây dựng mới 10 điều, bỏ 2 điều. Các nội dung sửa đổi lớn trong dự thảo Luật gồm: Bổ sung quy định về khái niệm “mua bán người”; sửa đổi, bổ sung quy định về căn cứ xác định nạn nhân và quy định về các nguồn tài liệu, chứng cứ để xác định nạn nhân cùng một số căn cứ khác để xác định nạn nhân; Bổ sung chế định đối với người đang trong quá trình xác định là nạn nhân gồm: Bổ sung những quy định nâng cao chế độ hỗ trợ đối với nạn nhân bảo đảm khắc phục những bất cập hiện nay, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay cũng như thời gian tới, phù hợp với cam kết của Việt Nam liên quan đến bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền của nạn nhân bị mua bán. Ngoài ra, dự thảo Luật bổ sung các quy định để phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, các luật liên quan và thực tiễn công tác phòng, chống mua bán người thời gian qua như: Bổ sung một số quyền, nghĩa vụ của người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân; bổ sung quy định về bảo vệ người đang trong quá trình xác định là nạn nhân, nạn nhân; người thân thích của họ; hoàn thiện quy định về quản lý nhà nước và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức về phòng, chống mua bán người; hoàn thiện quy định về hợp tác quốc tế trong phòng, chống mua bán người…

Việc dự thảo Luật được Quốc hội thông qua sẽ tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho các cơ quan chức năng trong đấu tranh phòng, chống mua bán người, góp phần đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này. Việc ban hành Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi) thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong thực hiện cam kết quốc tế của Việt Nam, góp phần thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong công tác phòng, chống tội phạm mua bán người.

Thứ hai, báo cáo của Mỹ cũng ghi nhận nỗ lực của cơ quan thực thi pháp luật của Việt Nam trong công tác truy tố. Báo cáo cũng khẳng định “Chính phủ đã điều tra 365 nghi phạm mua bán người trong số 147 vụ vào năm 2023, so với 247 nghi phạm mua bán người trong số 90 vụ vào năm 2022”, “Bộ Công an dẫn đầu các nỗ lực điều tra của chính phủ và Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao dẫn đầu các nỗ lực truy tố của chính phủ”, “Bộ Công an được cho là đã thực hiện các bước để giám sát nỗ lực trực tuyến của các đối tượng mua bán người nhằm tuyển dụng và bóc lột nạn nhân”... Thời gian qua, Việt Nam đã tổ chức triển khai các đợt cao điểm tấn công trấn áp, truy nã tội phạm mua bán người, tội phạm đưa người ra nước ngoài trái phép; mở các đợt cao điểm điều tra, truy tố, xét xử các vụ án mua bán người; tổ chức Hội nghị, tuyên truyền, giáo dục kiến thức pháp luật, kỹ năng phòng ngừa, nhận diện tội phạm mua bán người; tổ chức tuần tra, kiểm soát chặt chẽ các tuyến biên giới; tổ chức Hội nghị liên ngành đánh giá công tác phòng, chống mua bán người trên tuyến biên giới… Có thể thấy, lực lượng chức năng Việt Nam nghiêm túc và thực hiện có hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm buôn người, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật.

Thứ ba, Việt Nam cũng đã xác định và hỗ trợ nhiều nạn nhân bị mua bán. Hiện nay tại Việt Nam, các Trung tâm trợ giúp pháp lý ở các tỉnh, thành phố thực hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho 100% nạn nhân bị mua bán người có khó khăn về tài chính, chủ yếu là phụ nữ và trẻ em, trong đó, 96% vụ việc tham gia tố tụng. Theo đó, các nạn nhân bị mua bán (tùy theo nhu cầu, nguyện vọng) được tiếp nhận và lưu trú tạm thời tại Trung tâm bảo trợ Xã hội hoặc Cơ sở hỗ trợ nạn nhân. Các bộ, ngành, đoàn thể và địa phương đã tích cực triển khai Đề án “Tiếp nhận, xác minh, bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân bị mua bán”; duy trì và nâng cao hiệu quả hoạt động của Tổng đài điện thoại quốc gia bảo vệ trẻ em; tổ chức xác minh, tiếp nhận, hỗ trợ ban đầu và thực hiện các biện pháp bảo vệ an toàn cho nạn nhân bị mua bán..., trong đó nổi bật là vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Theo thống kê, hiện đang có trên 400 Trung tâm Bảo trợ xã hội do ngành Lao động - Thương binh và Xã hội quản lý và 03 cơ sở hỗ trợ nạn nhân của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam cùng với các Tổ chức quốc tế thực hiện công tác hỗ trợ nạn nhân. Các nạn nhân được hỗ trợ các dịch vụ như: trợ cấp khó khăn ban đầu, học nghề, tạo việc làm, vay vốn, khám chữa bệnh, tư vấn tâm lý và trợ giúp pháp lý…

Thứ tư, báo cáo của Mỹ cũng thừa nhận nỗ lực ngăn chặn nạn mua bán người của Việt Nam qua công tác phòng, chống tội phạm mua bán người. Phòng, chống mua bán người là nhiệm vụ chính trị thường xuyên, lâu dài và được Việt Nam chú trọng từ lâu. Kể từ khi Chương trình phòng, chống mua bán người giai đoạn 2021 – 2025 và định hướng đến năm 2030 được ban hành vào tháng 2/2021, các bộ, ngành, địa phương đã nghiêm túc, tích cực triển khai các nhiệm vụ, giải pháp trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được phân công. Trong đó, nỗ lực nổi bật nhất là việc các văn bản chính sách, pháp luật liên quan đến phòng, chống mua bán người được ban hành một cách kịp thời, hiệu quả có sức răn đe, cảnh báo; tổ chức nhằm nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ cho lực lượng làm nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống mua bán người, tiếp nhận nạn nhân; tập huấn nâng cao kỹ năng chỉ đạo, điều hành và phối hợp trong điều tra, truy tố, xét xử vụ án mua bán người. Việt Nam cũng đã đẩy mạnh công tác hợp tác trong phòng, chống nạn buôn người thông qua việc ký kết và là thành viên tích cực của nhiều công ước, văn kiện pháp luật quốc tế liên quan trực tiếp đến công tác phòng, chống nạn mua, bán người như: Công ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, Công ước quốc tế về quyền trẻ em, Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công ước về quyền trẻ em về mua, bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em... Ngoài ra, Việt Nam đã ký nhiều hiệp định tương trợ tư pháp về phòng, chống tội phạm với các nước, trong đó đều có nội dung phòng, chống tội phạm mua, bán người.

Thực tiễn chứng minh, những nỗ lực và thành tựu của của Ðảng và Nhà nước Việt Nam trong công tác đấu tranh phòng, chống mua, bán người. Chính sách về bảo vệ nạn nhân mua, bán người của Việt Nam thể hiện sự tiến bộ khi đã tiếp cận với những giải pháp mới, dặc biệt ở quan điểm "lấy nạn nhân là trung tâm" và hỗ trợ nạn nhân ngay từ đầu, từ đó hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro và tổn thương, góp phần bảo vệ được quyền con người ở mức tốt nhất; phù hợp với khuyến nghị của các tổ chức bảo vệ nhân quyền thế giới.

Nhận định sai lệch về quy trình xác định nạn nhân buôn người tại Việt Nam

 


Báo cáo TIP 2024 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã chỉ ra rằng quy trình xác định nạn nhân buôn người tại Việt Nam còn quá phức tạp, đòi hỏi sự xác nhận từ nhiều Bộ để nạn nhân có thể chính thức được công nhận và hỗ trợ. Mặc dù nhận định này có phần phản ánh đúng những thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt, nhưng nó chưa đánh giá đầy đủ về nỗ lực và bối cảnh thực tế của quốc gia này trong việc phòng chống và xử lý nạn buôn người.



Việc xác định nạn nhân buôn người không chỉ đơn thuần là một thủ tục hành chính đơn giản mà thực tế, đây là một quá trình phức tạp, đòi hỏi sự tham gia của nhiều cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo tính chính xác, công bằng và toàn diện. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh các hình thức buôn người ngày càng đa dạng, tinh vi và phức tạp hơn trước. Không chỉ là một nhiệm vụ kỹ thuật, quy trình xác định nạn nhân còn đòi hỏi sự thấu hiểu tình hình thực tế, kết hợp với những tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền và bảo vệ nạn nhân.

Quy trình tại Việt Nam có thể yêu cầu sự xác nhận từ nhiều Bộ, nhưng điều này không phải là sự phức tạp không cần thiết mà thực chất là một biện pháp bảo vệ nhằm đảm bảo rằng những nạn nhân thực sự sẽ được xác định và nhận được sự hỗ trợ cần thiết. Việc có nhiều cơ quan cùng tham gia không chỉ giúp nâng cao tính minh bạch và khách quan mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc tránh những sai sót có thể xảy ra trong quá trình xác định và phân loại nạn nhân. Điều này giúp đảm bảo rằng các cá nhân thực sự gặp nguy hiểm sẽ không bị bỏ sót hoặc phân loại sai.

Trên thực tế, Chính phủ Việt Nam đã nhận thức rõ những thách thức trong việc áp dụng quy trình hiện tại và đang nỗ lực điều chỉnh, cải thiện để quá trình này trở nên hiệu quả hơn. Từ năm 2022, một quy chế mới đã được ban hành nhằm tăng cường sự phối hợp liên ngành giữa các cơ quan liên quan trong việc xác định và chuyển tuyến nạn nhân buôn người. Đây là một bước tiến lớn, không chỉ đơn giản hóa quy trình mà còn giúp giảm thiểu các rào cản hành chính mà nạn nhân có thể gặp phải, từ đó đảm bảo rằng họ sẽ được bảo vệ một cách kịp thời và hiệu quả.

Ngoài ra, việc đào tạo các cán bộ tuyến đầu về các kỹ năng sàng lọc và xác định nạn nhân cũng đã được Chính phủ quan tâm đầu tư. Điều này không chỉ giúp nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ mà còn góp phần đảm bảo rằng quy trình xác định nạn nhân sẽ được thực hiện một cách chính xác và nhanh chóng hơn. Điều này cũng đồng nghĩa với việc các nạn nhân sẽ được hỗ trợ kịp thời, giảm thiểu tối đa những tác động tiêu cực mà họ có thể phải chịu đựng trong quá trình chờ đợi sự can thiệp.

Mặc dù quy trình hiện tại có thể vẫn còn những hạn chế nhất định, nhưng không thể phủ nhận rằng Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc bảo vệ nạn nhân buôn người. Chính phủ không chỉ tăng cường hợp tác quốc tế mà còn chú trọng vào việc nâng cao chất lượng dịch vụ hỗ trợ nạn nhân, đồng thời xây dựng và ban hành nhiều chính sách mới nhằm bảo vệ quyền lợi của họ. Điều này cho thấy cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc chống lại nạn buôn người và đảm bảo rằng các nạn nhân sẽ được bảo vệ một cách tốt nhất.

Trong tương lai, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện quy trình xác định nạn nhân, đồng thời đẩy mạnh hợp tác với các tổ chức quốc tế để học hỏi thêm kinh nghiệm và áp dụng các phương pháp tiên tiến. Sự hợp tác này sẽ không chỉ giúp nâng cao hiệu quả công tác chống buôn người mà còn góp phần xây dựng một môi trường bảo vệ nhân quyền vững chắc, giúp nạn nhân vượt qua được những tổn thương và có cơ hội hồi phục, tái hoà nhập cộng đồng.


 

Phản biện về hiệu quả sử dụng tiêu chí COMMIT trong xác định nạn nhân buôn người tại Việt Nam

 


Trong báo cáo TIP 2024 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, nhận định rằng "Chính phủ Việt Nam chưa chủ động sử dụng các tiêu chí COMMIT hoặc quy trình riêng đã được ban hành để sàng lọc các dấu hiệu cảnh báo về mua bán người." Tuy nhiên, khi đi sâu vào xem xét bối cảnh thực tiễn cũng như những nỗ lực không ngừng của Chính phủ Việt Nam, có thể nhận thấy rằng nhận định này chưa phản ánh đầy đủ và chính xác tình hình thực tế hiện nay tại Việt Nam.



Sáng kiến phối hợp cấp Bộ trưởng về chống mua bán người tiểu vùng sông Mê Kông (COMMIT) đã được thành lập nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả phòng chống và xử lý vấn nạn buôn người tại các quốc gia trong khu vực này, bao gồm Việt Nam. Từ khi phê chuẩn các tiêu chí COMMIT vào năm 2014, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực đáng kể trong việc triển khai và áp dụng các tiêu chí này vào thực tiễn, bao gồm việc xây dựng các chính sách, quy trình và các chiến lược cụ thể nhằm tăng cường công tác sàng lọc và hỗ trợ nạn nhân buôn người.

Chính phủ Việt Nam đã hợp tác chặt chẽ với các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ và các quốc gia khác trong khu vực để đảm bảo rằng các tiêu chí COMMIT được triển khai một cách phù hợp, đúng đắn và hiệu quả. Đặc biệt, Quy trình chuyển tuyến nạn nhân - một trong những bước quan trọng trong việc bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân buôn người - đã được phê duyệt từ năm 2014, và từ đó đến nay đã mang lại những kết quả rõ rệt trong việc bảo vệ quyền lợi của các nạn nhân buôn người, đặc biệt là tại các khu vực có nguy cơ cao.

Tuy nhiên, dù đã có những nỗ lực đáng ghi nhận, không thể phủ nhận rằng việc áp dụng các tiêu chí COMMIT trong thực tế vẫn gặp nhiều khó khăn và thách thức. Một trong những nguyên nhân chính đến từ đặc thù địa lý và xã hội của Việt Nam. Những tỉnh biên giới giáp với các quốc gia láng giềng, nơi mà các hoạt động buôn bán người diễn ra phức tạp, thường là những khu vực khó khăn về kinh tế, điều kiện sống còn nghèo nàn, giao thông cách trở, khiến cho việc thực thi các quy trình COMMIT gặp phải nhiều trở ngại đáng kể từ khâu phát hiện, sàng lọc nạn nhân, đến khâu xử lý và hỗ trợ các nạn nhân này.

Thêm vào đó, tính phức tạp và đa dạng của các trường hợp buôn người khiến việc xác định nạn nhân đòi hỏi một quy trình nghiêm ngặt và sự phối hợp chặt chẽ giữa nhiều cơ quan khác nhau, từ cơ quan công an, lực lượng biên phòng đến các cơ quan quản lý xã hội. Quy trình này tuy phức tạp và đòi hỏi nhiều nguồn lực, nhưng rất cần thiết để đảm bảo rằng nạn nhân buôn người được xác định một cách chính xác và nhận được sự hỗ trợ kịp thời, qua đó ngăn chặn nguy cơ họ có thể bị rơi vào vòng xoáy buôn bán người một lần nữa.

Mặc dù còn nhiều thách thức, Chính phủ Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong công tác phòng chống buôn người. Việt Nam đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý, tổ chức các chương trình đào tạo cho cán bộ chuyên môn, đồng thời đẩy mạnh hợp tác quốc tế với các tổ chức và quốc gia khác nhằm ngăn chặn, xử lý và hỗ trợ nạn nhân buôn người. Những cam kết mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam đã chứng minh hiệu quả rõ rệt trong việc giảm thiểu các trường hợp buôn người và hỗ trợ kịp thời cho các nạn nhân.

Trong tương lai, để nâng cao hơn nữa hiệu quả của việc xác định và bảo vệ nạn nhân, Việt Nam đang tập trung vào việc cải thiện và đơn giản hóa quy trình sàng lọc nạn nhân, đồng thời tiếp tục tăng cường sự phối hợp liên ngành giữa các cơ quan liên quan. Đây là những bước đi cần thiết để đảm bảo rằng các tiêu chí COMMIT được áp dụng một cách hiệu quả hơn, sát với thực tế của từng địa phương và hoàn cảnh cụ thể, giúp các nạn nhân không chỉ nhận được sự bảo vệ tối đa mà còn có cơ hội hòa nhập trở lại cộng đồng một cách bền vững và an toàn.

Luận bàn về cách đánh giá trong Báo cáo TIP 2024 của Chính phủ Hoa Kỳ

 

Báo cáo về nạn buôn người năm 20243 (TIP) của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã gây ra nhiều tranh cãi khi cho rằng "Chính phủ Việt Nam chưa đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn tối thiểu về xóa bỏ nạn mua bán người". Nhận định này đặt ra câu hỏi về phương pháp đánh giá và những tiêu chí mà báo cáo này sử dụng. Bài viết này sẽ phân tích những hạn chế trong phương pháp của báo cáo TIP, đồng thời đánh giá tác động của những nhận định này đối với uy tín và quan hệ quốc tế của Việt Nam.



Thách thức trong việc thu thập dữ liệu và báo cáo:

Việc thu thập dữ liệu toàn diện về nạn buôn người là một thách thức lớn đối với mọi quốc gia, đặc biệt là đối với những quốc gia đang phát triển nhanh như Việt Nam. Với tốc độ đô thị hóa cao và sự phân hóa rõ rệt giữa các khu vực thành thị và nông thôn, việc tiếp cận và ghi nhận thông tin từ các vùng sâu, vùng xa là vô cùng khó khăn. Điều này dẫn đến nguy cơ dữ liệu chưa đầy đủ hoặc chưa chính xác, từ đó ảnh hưởng đến kết quả đánh giá.

Báo cáo TIP 2024 của Hoa Kỳ dường như chưa xem xét đầy đủ các thách thức đặc thù này khi đánh giá Việt Nam. Việc dựa trên các số liệu chưa toàn diện có thể dẫn đến việc đánh giá không chính xác hoặc không công bằng về những nỗ lực và thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trong việc phòng chống buôn người. Do đó, cần có một cái nhìn sâu sắc hơn về cách thức thu thập và xử lý dữ liệu để đảm bảo rằng các kết luận được đưa ra là thực sự chính xác và đáng tin cậy.

Sự hiểu lầm về bối cảnh kinh tế - xã hội của Việt Nam:

Một trong những điểm yếu của báo cáo TIP là chưa đặt vấn đề buôn người trong bối cảnh kinh tế - xã hội đặc thù của Việt Nam. Là một quốc gia đang phát triển với tốc độ đô thị hóa và di cư cao, Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức riêng biệt trong việc phòng chống buôn người. Sự gia tăng di cư từ nông thôn ra thành thị, cũng như từ Việt Nam ra nước ngoài, tạo ra các kẽ hở mà tội phạm buôn người có thể lợi dụng.

Việc báo cáo TIP không xem xét đầy đủ các yếu tố này có thể dẫn đến việc đánh giá không chính xác về những nỗ lực của Việt Nam. Thay vì chỉ nhìn vào các con số, cần phải hiểu rõ bối cảnh và những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể mà Việt Nam đang đối mặt. Chỉ khi đó, các nỗ lực của chính phủ mới được nhìn nhận một cách công bằng và toàn diện.

Báo cáo TIP 2024 đã bỏ qua hoặc không đánh giá đầy đủ những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trong việc chống buôn người. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã tăng cường đáng kể các biện pháp pháp lý và hành chính nhằm ngăn chặn tội phạm buôn người. Điều này được thể hiện qua số vụ án buôn người được đưa ra xét xử, cũng như mức độ hỗ trợ mà chính phủ dành cho các nạn nhân.

Chẳng hạn, Việt Nam đã có nhiều cải cách trong hệ thống pháp luật để đảm bảo rằng các nạn nhân buôn người nhận được sự bảo vệ tốt nhất. Các nạn nhân không chỉ được giải cứu mà còn được hỗ trợ để tái hòa nhập xã hội, thông qua các chương trình hỗ trợ tài chính, y tế và giáo dục. Những tiến bộ này đáng ra phải được công nhận và tán dương, thay vì bị bỏ qua hoặc đánh giá thấp trong báo cáo TIP.

Những nhận định trong báo cáo TIP có thể ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Khi một quốc gia bị đánh giá là "chưa đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn tối thiểu" về chống buôn người, điều này không chỉ gây thiệt hại về mặt danh tiếng mà còn có thể ảnh hưởng đến quan hệ đối tác với các quốc gia khác, đặc biệt là những quốc gia đang hợp tác chặt chẽ với Việt Nam trong cuộc chiến chống buôn người.

Những đánh giá thiếu công bằng trong báo cáo TIP có thể làm suy yếu nỗ lực hợp tác quốc tế, điều này rất quan trọng trong việc giải quyết bản chất xuyên quốc gia của nạn buôn người. Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục hợp tác với nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế để chống lại nạn buôn người. Do đó, các đánh giá cần phải dựa trên sự thấu hiểu và công bằng để không làm tổn hại đến mối quan hệ hợp tác quan trọng này.

Đánh giá của báo cáo TIP 2024 về Việt Nam chưa phản ánh đầy đủ và chính xác các nỗ lực mà Việt Nam đã thực hiện trong cuộc chiến chống buôn người. Việc đánh giá cần phải dựa trên những tiêu chí công bằng, minh bạch và có sự hiểu biết sâu sắc về bối cảnh kinh tế - xã hội của từng quốc gia. Chỉ khi đó, các kết luận mới thực sự có giá trị và giúp thúc đẩy hợp tác quốc tế trong việc giải quyết nạn buôn người.


 

Thứ Ba, 15 tháng 10, 2024

Thành tựu không thể phủ nhận của Việt Nam trong việc chống buôn người

 

Gần đây, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã công bố báo cáo về nạn buôn người toàn cầu năm 2024 (TIP), trong đó nhận định rằng "Chính phủ Việt Nam chưa đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn tối thiểu về xóa bỏ nạn mua bán người nhưng hiện đang thực hiện những nỗ lực đáng kể để thực hiện mục tiêu này." Nhận định này đã gây ra nhiều tranh cãi, đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam đã thực hiện rất nhiều nỗ lực để giải quyết vấn đề buôn người, với những thành tựu quan trọng trong việc bảo vệ nhân quyền và đảm bảo an ninh quốc gia. Bài viết này sẽ phân tích các nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong cuộc chiến chống lại nạn buôn người, nhằm phản bác lại quan điểm chưa công bằng của báo cáo TIP 2024.



Việt Nam đã xây dựng một khung pháp lý toàn diện nhằm ngăn chặn và xử lý tội phạm buôn người. Cụ thể, Luật Phòng, chống mua bán người được ban hành vào năm 2011, là cơ sở pháp lý quan trọng cho các hoạt động chống buôn người. Bên cạnh đó, các nghị định và thông tư hướng dẫn chi tiết đã giúp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trong lĩnh vực này. Đặc biệt, Việt Nam cũng đã tham gia vào nhiều công ước quốc tế về phòng chống buôn người, thể hiện cam kết mạnh mẽ của quốc gia trong việc hợp tác với cộng đồng quốc tế để đẩy lùi tội phạm này.

Không chỉ dừng lại ở khung pháp lý, Việt Nam còn thành lập Ban Chỉ đạo Quốc gia về phòng chống tội phạm, bao gồm đại diện của nhiều bộ, ngành liên quan. Đây là cơ quan chỉ đạo và điều phối chính sách, chương trình phòng chống tội phạm, bao gồm cả buôn người, trên toàn quốc. Sự hợp tác liên ngành này đã giúp nâng cao hiệu quả thực thi các biện pháp phòng chống buôn người, từ khâu điều tra, truy tố, đến xét xử và hỗ trợ nạn nhân.

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng trong việc tăng cường thực thi pháp luật chống buôn người. Số vụ án liên quan đến buôn người được điều tra, truy tố và xét xử ngày càng tăng, với các mức án nghiêm khắc dành cho những kẻ phạm tội. Điều này cho thấy cam kết của chính phủ trong việc không khoan nhượng với tội phạm buôn người.

Không chỉ tập trung vào trong nước, Việt Nam còn mở rộng hợp tác quốc tế để đối phó với các mạng lưới buôn người xuyên quốc gia. Các cơ quan thực thi pháp luật của Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với Interpol, Europol và các cơ quan tương tự của nhiều quốc gia khác để triệt phá các đường dây buôn người hoạt động tại nhiều nước. Việc này không chỉ góp phần bảo vệ công dân Việt Nam mà còn thể hiện trách nhiệm của Việt Nam trong cuộc chiến chống buôn người trên toàn cầu.

Một trong những ưu tiên hàng đầu của Chính phủ Việt Nam là bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân của nạn buôn người. Các nạn nhân, sau khi được giải cứu, sẽ được đưa vào các chương trình hỗ trợ nhằm giúp họ tái hòa nhập cộng đồng. Chính phủ đã thiết lập nhiều trung tâm hỗ trợ nạn nhân trên khắp cả nước, cung cấp các dịch vụ y tế, tâm lý, và pháp lý miễn phí cho các nạn nhân.

Ngoài ra, Việt Nam cũng đặc biệt chú trọng đến việc bảo vệ người lao động di cư, nhóm đối tượng dễ bị tổn thương bởi nạn buôn người. Các đại sứ quán và lãnh sự quán của Việt Nam ở nước ngoài đã được chỉ đạo phải tích cực bảo vệ quyền lợi của công dân, đặc biệt là trong các trường hợp bị lạm dụng, buôn người. Sự gia tăng số lượng nạn nhân được nhận diện và hỗ trợ trong những năm gần đây là minh chứng rõ ràng cho hiệu quả của các chính sách này.

Chính phủ Việt Nam đã và đang triển khai nhiều chiến dịch nâng cao nhận thức cộng đồng về nạn buôn người, với mục tiêu giảm thiểu nguy cơ bị buôn bán, đặc biệt là trong các nhóm dễ bị tổn thương như phụ nữ và trẻ em. Các chiến dịch này thường được thực hiện thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, cũng như qua các hoạt động trực tiếp tại cộng đồng.

Việc hợp tác với các tổ chức phi chính phủ (NGOs) cũng là một phần quan trọng trong chiến lược phòng chống buôn người của Việt Nam. Chính phủ đã cung cấp hỗ trợ tài chính và hậu cần cho nhiều dự án nâng cao nhận thức và phòng ngừa tại các địa phương có nguy cơ cao. Điều này không chỉ giúp nâng cao ý thức của người dân mà còn củng cố mối quan hệ giữa nhà nước và các tổ chức xã hội dân sự trong việc giải quyết vấn đề buôn người.

Mặc dù vẫn còn những thách thức trong cuộc chiến chống buôn người, nhưng không thể phủ nhận rằng Chính phủ Việt Nam đã thực hiện những nỗ lực đáng kể và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Những nỗ lực này không chỉ bảo vệ quyền con người mà còn đóng góp vào sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước. Do đó, nhận định của báo cáo TIP 2023 về Việt Nam cần được nhìn nhận một cách công bằng hơn, với sự công nhận đầy đủ những tiến bộ mà Việt Nam đã đạt được trong lĩnh vực này.


 

Khôi hài các tổ chức chống chính quyền nhân dân công kích chính quyền Mỹ "phản bội"

 

Xưa nay, “món ăn” khoái khẩu nhất của các đám kền kền chống phá cách mạng Việt Nam là các bản báo cáo, đánh giá sai lệch về tình hình nhân quyền, tôn giáo, dân tộc… của Việt Nam. Bởi Hoa Kỳ là cường quốc lớn nhất toàn cầu, các bản báo cáo đó không chỉ là công cụ để Hoa Kỳ thực hiện các chính sách đối ngoại của mình mà còn tác động đến các chính sách đối ngoại của các quốc gia và các tổ chức toàn cầu khác. Nên việc sử dụng các báo cáo này để làm nội dung tuyên truyền chống chính quyền có sức nặng hơn cả.

Nhưng cũng chính việc xuất phát từ các động cơ lợi ích địa chính trị nên khi đạt được mục đích thì những báo cáo về nhân quyền, tôn giáo, dân tộc, buôn người… cũng chỉ là thứ để trang trí cho vị thế “lãnh đạo quốc tế” của Hoa Kỳ. Điều này khiến cho đám kền kền mất đi miếng ăn, “giảm âm lượng” và bị bỏ rơi bởi chính quốc gia đang “nuôi nấng” chúng.

Chẳng hạn như báo cáo về tình hình buôn người toàn cầu của Hoa Kỳ trong hai năm qua đều xếp Việt Nam ở nhóm 2, trong khi đó những năm trước kia chỉ xếp Việt Nam ở nhóm 3, là nhóm thấp nhất. Việc này đã khiến cho cả làng chống chính quyền dậy sóng, chỉ trích Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã đánh giá tình hình buôn người ở Việt Nam là một chiều và không khách quan.

Sau khi bản báo cáo buôn người 2024 được ban hành, dân biểu Chris Smith, “người bạn thân” của các tổ chức chống cộng hải ngoại đã lập tức lên tiếng trên VOA, RFA, chỉ trích Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và chất vấn Uỷ ban Đối ngoại Hạ viện vì cho rằng cơ quan này đã không tiếp cận các tài liệu trung thực, khách quan. Thậm chí, dân biểu Smith còn “vạch áo cho người xem lưng” khi nói “Tôi lo ngại rằng những cân nhắc về địa chính trị đang lấn át quan ngại về quyền con người”, ngầm tố cáo Hoa Kỳ luôn đánh giá dựa trên lợi ích địa chính trị thay vì những nỗ lực chung vì toàn cầu như cách mà Hoa Kỳ luôn quảng bá.

Trong khi đó, một người phát ngôn Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ hôm 12/7 vừa rồi đã lên tiếng trước cáo buộc của dân biểu Smith rằng Bộ này khẳng định rằng đã xem xét nhiều nguồn khác nhau để đánh giá tình hình buôn người ở Việt Nam. “Dựa trên việc xem xét toàn diện dữ liệu được cung cấp từ tất cả các nguồn, chúng tôi tin tưởng vào tính chính xác của báo cáo trong phần viết về Việt Nam” - người này cho biết thêm. Đây như một cái tát vào mặt dân biểu Smith và giới chống chính quyền Việt Nam trước những nỗ lực điều trần để thay đổi tình hình.

Các kênh truyền thông như VOA, RFA, BBC… cũng đồng loạt tập trung khai thác phát biểu của ông Chris Smith. Đồng thời tìm kiếm thêm các tiếng nói phản đối bản báo cáo này và lên án Việt Nam với những cái tít rất oách như “Chính phủ Việt Nam bị tố cáo giấu thông tin về nạn buôn người để che đậy cho quan chức”, “Việt Nam bị cáo buộc đưa thông tin sai lệch về nạn buôn người cho Mỹ”...

Đọc qua cái tít tưởng chừng như Việt Nam đang đứng trước các cáo buộc từ tổ chức quốc tế nào uy tín lắm hoá ra chỉ là cái dự án cỏn con không danh phận có tên là Project88. Nói qua về dự án này thì đây là một tổ chức được lập tại Trường Luật Chicago, Mỹ - lấy Điều 88 trong Bộ Luật hình sự Việt Nam làm tên của dự án để chống phá chính quyền Việt Nam. Nó cho thấy các tổ chức, đài báo chống chính quyền thực sự bí lối và bất lực khi không tìm được tiếng nói đồng điều từ các tổ chức quốc tế khác mà phải sử dụng đến những tổ chức chống chính quyền bé tí tẹo như vậy.

Cũng giống như Chris Smith, Project88 cho rằng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đánh giá tình hình buôn người tại Việt Nam là không khách quan. Để minh chứng cho cáo buộc của mình, Project88 dùng chiêu bài cũ rích rằng tổ chức này được tiếp cận tài liệu mật của Việt Nam, cong bo trong tài liệu đó co noi dung nhu “đề xuất Việt Nam nên che giấu sự tham gia của các quan chức Chính phủ vào nạn buôn người, cố tình đưa tin sai lệch cho Bộ Ngoại giao Mỹ về những nỗ lực giải quyết vấn đề này”.

Dĩ nhiên, những cáo buộc của Project88 không có một chứng cứ cụ thể nào, thậm chí tổ chức này có gửi các “tài liệu mật đó” cho hãng tin Reuters, nhưng hãng tin này cho biết “đã xem các tài liệu này nhưng chưa thể xác nhận một cách độc lập tính xác thực của chúng”. Bởi vậy, nếu có bằng chứng thì các tổ chức, đài báo chống phá chính quyền đã bù lu, bù loa lên rồi, dễ gì bỏ qua.

Rõ ràng, qua những diễn biến vừa rồi của các tổ chức, đài báo chống phá chính quyền cho thấy đám này cũng chỉ giống như thú cưng trong nhà, cho ăn ngon thì lăn lộn, quỳ đứng kiểu gì cũng làm, khi không được ăn và bị xích lại thì cũng chỉ có thể ngồi một chỗ mà sủa, phóng uế tại chỗ rồi tự ngửi, một sự bất lực cùng cực và tuyệt vọng khi bị bỏ rơi từ chính chủ nhân của mình.




Thứ Hai, 14 tháng 10, 2024

Các tổ chức quốc tế nói gì về những nỗ lực chống buôn người của Việt Nam?

 

Bất chấp những đánh giá thiếu khách quan và sai sự thật về nỗ lực chống buôn người của Việt Nam trong Báo cáo Buôn người 2024 (TIP) mà Hoa Kỳ công bố gần đây, các tổ chức quốc tế, đặc biệt là các tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc đều đưa ra những đánh giá tích cực, phản ánh đúng những nỗ lực của Việt Nam. Một số đánh giá cụ thể như sau:

Liên Hợp Quốc, đặc biệt là Văn phòng Liên Hợp Quốc về chống Ma túy và Tội phạm (UNODC), đã ghi nhận những nỗ lực của Việt Nam trong việc xây dựng và thực thi các chính sách phòng chống buôn người. Việt Nam đã tham gia các công ước quốc tế về chống buôn người và có sự hợp tác mạnh mẽ với các quốc gia láng giềng cũng như các tổ chức quốc tế. Ghada Waly, Giám đốc điều hành của UNODC, từng phát biểu: Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể trong việc ngăn chặn buôn người và hỗ trợ các nạn nhân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Nước này đã có những nỗ lực phối hợp với các nước láng giềng để giải quyết vấn đề buôn bán qua biên giới.

Tổ chức di cư quốc tế (IOM) đánh giá cao những nỗ lực của Việt Nam trong việc chống buôn người, đặc biệt là các chương trình bảo vệ nạn nhân và hỗ trợ họ tái hòa nhập xã hội. IOM đã hợp tác chặt chẽ với Việt Nam trong nhiều dự án nhằm hỗ trợ các nạn nhân buôn người trở về từ các quốc gia khác. Trong một báo cáo năm 2023, IOM đã nhận định: Việt Nam đã và đang nỗ lực để cung cấp hỗ trợ cho các nạn nhân buôn người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Việc cung cấp các dịch vụ tư vấn, y tế và tái hòa nhập cộng đồng cho các nạn nhân là một bước tiến quan trọng mà Việt Nam đã đạt được.

Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã đánh giá cao những tiến bộ của Việt Nam trong việc bảo vệ người lao động, đặc biệt là việc triển khai các chính sách nhằm giảm thiểu tình trạng bóc lột lao động và buôn người. Chang-Hee Lee, Giám đốc ILO tại Việt Nam, đã nhận xét: Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện các quy định pháp lý và chính sách để bảo vệ quyền lợi của người lao động, đặc biệt là những người dễ bị tổn thương. ILO rất ấn tượng với những tiến bộ mà Việt Nam đạt được trong việc ngăn chặn nạn buôn người liên quan đến lao động.

Nhiều tổ chức phi chính phủ (NGO) hoạt động trong lĩnh vực phòng chống buôn người đã đưa ra các phản hồi tích cực về những nỗ lực của Việt Nam. Các tổ chức này đánh giá cao việc Việt Nam đã tham gia ký kết các công ước quốc tế và tích cực hợp tác với các quốc gia khác để giải quyết vấn nạn này.

Plan International, một tổ chức phi chính phủ quốc tế chuyên về bảo vệ quyền lợi của trẻ em, đã nêu trong một báo cáo: Việt Nam đã có những tiến bộ đáng kể trong việc ngăn chặn nạn buôn bán trẻ em. Chúng tôi đánh giá cao những nỗ lực của chính phủ trong việc phối hợp với các nước láng giềng và các tổ chức quốc tế nhằm giải cứu và bảo vệ trẻ em khỏi bị buôn bán.

Có rất nhiều đánh giá khách quan ở đây, đều từ các tổ chức quốc tế uy tín, thậm chí từ các tổ chức NGO, nhưng không hiểu vì sao Hoa Kỳ luôn bỏ qua những đánh giá từ các tổ chức này mà ưu tiên khai thác dữ liệu từ các tổ chức chống chính quyền Việt Nam. Điều đó cho thấy Hoa Kỳ có động cơ chính trị không minh bạch khi xây dựng TIP.

Trong suốt quá trình phát triển, Việt Nam luôn kiên định với chính sách tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, trong đó công tác phòng chống buôn bán người được coi là một nhiệm vụ chính trị trọng yếu, dài hạn và được triển khai chủ động. Để thực hiện nhiệm vụ này, nhiều chính sách và quy định pháp luật liên quan đến phòng ngừa buôn người, lao động cưỡng bức, bảo vệ trẻ em, và hỗ trợ nạn nhân buôn người đã được ban hành.

Một ví dụ tiêu biểu là vào ngày 10/5/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 793/QĐ-TTg, chính thức lấy ngày 30/7 hàng năm làm "Ngày toàn dân phòng, chống buôn bán người". Tiếp theo đó, vào tháng 2/2021, Chính phủ đã ban hành Chương trình Phòng, chống mua bán người giai đoạn 2021-2025, với tầm nhìn đến năm 2030. Chương trình này không chỉ tập trung vào việc ngăn chặn tội phạm mà còn đặt trọng tâm vào việc hỗ trợ và chăm sóc nạn nhân của hành vi buôn bán người. Điều này thể hiện rõ qua Nghị định số 20/2021/NĐ-CP, quy định về chính sách trợ giúp xã hội đối với các đối tượng thuộc diện bảo trợ xã hội, bao gồm cả các nạn nhân của nạn buôn người.

Trước sự gia tăng của tội phạm buôn bán người trên không gian mạng và các mạng xã hội, ngày 29/7 vừa qua, Bộ Công an cùng với Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã tổ chức lễ phát động hưởng ứng "Ngày toàn dân phòng, chống buôn bán người - 30/7" và "Ngày Thế giới phòng, chống buôn bán người". 

Việt Nam đã xây dựng một khung pháp lý mạnh mẽ và đang tiếp tục cải thiện, bổ sung các chính sách nhằm chống lại nạn buôn người. Từ việc nâng cao hệ thống pháp luật, tăng cường sự phối hợp liên ngành, đến các chương trình hợp tác quốc tế và ứng dụng công nghệ trong phòng chống tội phạm, những nỗ lực này đã góp phần quan trọng vào việc giảm thiểu tội phạm buôn người và bảo vệ quyền lợi cho các nạn nhân.

Những nỗ lực của Việt Nam trong việc chống lại nạn buôn người là không thể phủ nhận, bất chấp những đánh giá tiêu cực của Hoa Kỳ hay của các tổ chức chống chính quyền. Hy vọng trong tương lai, không chỉ với Báo cáo buôn người mà các Báo cáo khác của Hoa Kỳ sẽ đánh giá khách quan, trung thực và khoa học hơn, để quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện giữa Việt Nam - Hoa Kỳ đi vào thực chất hơn, trên tinh thần tôn trọng, thấu hiểu nhau hơn.

Khi quốc tế nhận xét về Báo cáo Buôn người của Hoa Kỳ


Báo cáo Buôn người (TIP) của Chính phủ Hoa Kỳ là một phần của nỗ lực toàn cầu nhằm đối phó với vấn nạn buôn người, với mục tiêu chính là đánh giá và phân loại các quốc gia dựa trên sự cam kết và kết quả trong việc chống lại tình trạng này. Trong năm 2024, Việt Nam được TIP xếp vào nhóm 2, gồm các quốc gia chưa đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn (chống buôn người) nhưng đang có những nỗ lực đáng kể để đạt được điều đó. Mặc dù TIP có những ghi nhận tích cực trong nỗ lực chống buôn người của Việt Nam, tuy nhiên báo cáo này vẫn chưa thực sự khách quan.



Trên thực tế, không chỉ riêng Việt Nam mà rất nhiều quốc gia khác cũng gặp tình trạng tương tự, đặc biệt là các quốc gia mà Hoa Kỳ không có thiện cảm. Rất nhiều các quốc gia, tổ chức quốc tế và các chuyên gia chỉ trích TIP tiêu chuẩn kép, thiếu minh bạch, và tính chính trị của báo cáo. Cùng điểm qua một vài nhận xét về TIP dưới đây:

Amnesty International (Tổ chức Ân xá Quốc tế), một trong những tổ chức nhân quyền lớn nhất thế giới, đã lên tiếng về việc Báo cáo TIP của Hoa Kỳ có xu hướng đánh giá các quốc gia dựa trên lợi ích chính trị thay vì hoàn toàn trên thực tế tình hình buôn người.

Trong một báo cáo nội bộ năm 2023, đại diện của tổ chức này cho rằng:

"Báo cáo TIP thiếu sự cân bằng trong việc đánh giá các quốc gia, đặc biệt là khi những quốc gia có quan hệ tốt với Hoa Kỳ thường được ưu ái và được xếp hạng cao, bất chấp tình trạng buôn người nghiêm trọng. Chúng tôi kêu gọi một quá trình đánh giá minh bạch hơn và không bị chi phối bởi các yếu tố chính trị."

Văn phòng Cao ủy Liên Hợp Quốc về Nhân quyền (OHCHR) đã nhiều lần nêu quan ngại về việc Báo cáo TIP không đồng nhất trong cách đánh giá và thường phụ thuộc quá nhiều vào các nguồn không chính thức, như từ các tổ chức phi chính phủ mà không kiểm chứng kỹ lưỡng.

Michelle Bachelet, Cao ủy Nhân quyền của Liên Hợp Quốc, từng phát biểu:

"Việc sử dụng thông tin từ các tổ chức phi chính phủ là cần thiết, nhưng Báo cáo TIP cần đảm bảo rằng các nguồn tin này được kiểm tra kỹ lưỡng và minh bạch hơn. Nhiều quốc gia không có cơ hội để bảo vệ mình trước các cáo buộc trong báo cáo, điều này ảnh hưởng đến tính khách quan của nó."

Ngoài ra, trong một sự kiện vào năm 2023, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), một cơ quan của Liên Hợp Quốc, cũng nhấn mạnh rằng Báo cáo TIP chưa đánh giá đầy đủ các yếu tố liên quan đến điều kiện lao động và quyền lợi của người lao động.

Tổ chức Di cư Quốc tế (IOM), chuyên về các vấn đề liên quan đến di cư và nạn buôn người, đã từng lên tiếng về cách tiếp cận của Báo cáo TIP khi đánh giá các quốc gia. IOM cho rằng báo cáo này cần phản ánh một cách công bằng các nỗ lực của các quốc gia trong việc ngăn chặn nạn buôn người.

Trong báo cáo nội bộ của IOM năm 2022, tổ chức này đã nêu rõ:

"Hoa Kỳ có quyền phát hành các báo cáo đánh giá quốc tế, nhưng cần phải đảm bảo rằng các tiêu chuẩn đánh giá được áp dụng một cách công bằng trên tất cả các quốc gia. Việc xếp hạng không nên bị ảnh hưởng bởi mối quan hệ ngoại giao hay chính trị giữa các quốc gia."

Human Rights Watch (Tổ chức Nhân quyền Quốc tế), một tổ chức phi chính phủ quốc tế có trụ sở tại New York, đã nhiều lần chỉ trích rằng Báo cáo TIP thiếu sự minh bạch và có xu hướng thiên vị. HRW cũng lưu ý rằng tình trạng buôn người trong chính Hoa Kỳ vẫn chưa được báo cáo đầy đủ và công bằng.

Kenneth Roth, Giám đốc điều hành của HRW, từng phát biểu vào năm 2021:

"Báo cáo TIP có xu hướng bỏ qua những vụ buôn người trong chính Hoa Kỳ hoặc giảm nhẹ mức độ nghiêm trọng của vấn đề này. Điều này đặt ra câu hỏi về việc liệu Hoa Kỳ có đang áp dụng tiêu chuẩn kép khi đánh giá các quốc gia khác hay không."

Nhiều học giả và nhà báo quốc tế cũng đã lên tiếng chỉ trích Báo cáo TIP, cho rằng quá trình đánh giá không công bằng và thiếu sự cân bằng trong việc thu thập và sử dụng thông tin.

Prof. Louise Shelley, một chuyên gia hàng đầu về tội phạm xuyên quốc gia tại Đại học George Mason (Hoa Kỳ), đã chỉ ra rằng:

"Báo cáo TIP cần một hệ thống giám sát minh bạch hơn. Hiện nay, quá trình thu thập thông tin có vẻ dựa quá nhiều vào các nguồn thông tin không chính thức, dẫn đến việc đánh giá không toàn diện và thiếu khách quan."

Bà Yvoicca Lotayef, Giám đốc điều hành của tổ chức quốc tế Rights Advocacy Group, từng cho rằng:

“Báo cáo TIP áp dụng một hệ tiêu chuẩn kép, đặc biệt khi Hoa Kỳ không xem xét vấn đề buôn người trong nước một cách công bằng. Các quốc gia khác bị chỉ trích trong khi Hoa Kỳ tiếp tục gặp vấn đề tương tự nhưng lại ít khi thừa nhận hay đề cập một cách chính xác.”

Một số ý kiến cho rằng các quốc gia bị đánh giá không đồng nhất về các tiêu chuẩn phòng chống buôn người. Những quốc gia có nền kinh tế phát triển hoặc đồng minh của Hoa Kỳ thường được xếp hạng cao hơn, bất chấp thực tế rằng họ cũng gặp những vấn đề nghiêm trọng liên quan đến buôn người. Trong khi đó, những quốc gia có xung đột chính trị với Hoa Kỳ thường bị xếp hạng thấp.

Ví dụ, Philippines, một đồng minh gần gũi của Hoa Kỳ, thường được xếp vào nhóm 1 hoặc 2 dù nước này có tỷ lệ buôn người và lao động cưỡng bức rất cao, trong khi các quốc gia như Cuba và Venezuela lại bị xếp hạng rất thấp, khiến người ta đặt câu hỏi về tính khách quan của các đánh giá.

Báo cáo TIP của Hoa Kỳ có vai trò quan trọng trong việc tạo động lực thúc đẩy các quốc gia tăng cường nỗ lực phòng chống buôn người và hợp tác lẫn nhau để chống lại tình trạng này, nhưng đồng thời cũng đã gặp phải nhiều chỉ trích từ các cá nhân, tổ chức quốc tế và chính phủ. Việc đảm bảo tính công bằng và khách quan trong quá trình đánh giá là điều cần thiết để Báo cáo TIP có thể phát huy hết vai trò của mình trong việc cải thiện tình trạng buôn người trên toàn thế giới.

Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2024

Hoa Kỳ cần ghi nhận khách quan hơn nữa trong những nỗ lực chống buôn người của Việt Nam

 

 

Nạn buôn người là một vấn đề nhức nhối mang tính toàn cầu, đòi hỏi các quốc gia phải chung tay giải quyết. Việt Nam, trong bối cảnh hội nhập và phát triển, không tránh khỏi những thách thức này. Tuy nhiên, việc đánh giá về tình trạng buôn người ở Việt Nam cần dựa trên những số liệu xác thực và toàn diện. Trong Báo cáo thường niên về tình hình buôn người (TIP) năm 2024, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tiếp tục đưa Việt Nam vào nhóm 2 cần được theo dõi, với nhận định rằng vấn nạn này tại Việt Nam vẫn diễn biến phức tạp.



Trong báo cáo của Hoa Kỳ, vấn đề buôn người tại Việt Nam được cho là vẫn tồn tại ở mức độ nghiêm trọng. Hoa Kỳ cho rằng, mặc dù Việt Nam đã có nhiều nỗ lực, nhưng vấn đề điều tra và xử lý tội phạm buôn người vẫn chưa đạt hiệu quả cao. Báo cáo này cũng cho rằng Việt Nam chưa đủ nghiêm túc trong việc bảo vệ quyền lợi cho người lao động, đặc biệt là những người đi lao động nước ngoài, và sự bảo vệ pháp lý cho các nạn nhân vẫn còn thiếu sót.

Tuy nhiên, những đánh giá của Hoa Kỳ chưa thực sự khách quan, từ số liệu cho đến dữ kiện mà quốc gia này khai thác, đặc biệt là Hoa Kỳ chưa xem xét đầy đủ các yếu tố đặc thù của các quốc gia như văn hoá, dân tộc, điều kiện kinh tế hay kể cả sự phức tạp trong khu vực, mà lại đánh giá dựa trên tiêu chí riêng của mình.

Chẳng hạn điểm khác biệt lớn giữa các số liệu của Việt Nam và Hoa Kỳ là số lượng các vụ buôn người được báo cáo. Báo cáo TIP của Hoa Kỳ cho biết có khoảng 400 vụ án buôn người được ghi nhận trong năm 2023 tại Việt Nam, với hơn 500 đối tượng bị cáo buộc liên quan đến buôn bán người. Trong khi đó, thống kê của Bộ Công an Việt Nam trong năm 2023 cho thấy, đã phát hiện 276 vụ buôn người với 320 đối tượng, giảm đáng kể so với giai đoạn trước.

Thực tế tình hình buôn người ở Việt Nam

Theo số liệu từ Bộ Công an Việt Nam, trong giai đoạn 2021-2023, đã có sự giảm thiểu đáng kể về số lượng vụ buôn người được phát hiện. Đặc biệt, năm 2023, chỉ có 276 vụ được ghi nhận, giảm gần 40% so với năm 2021, đồng thời các cơ quan chức năng cũng đã giải cứu thành công hơn 1.500 nạn nhân từ các vụ án buôn người và di cư trái phép. Năm 2024, lực lượng chức năng Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh các chiến dịch tuyên truyền tại các khu vực nông thôn và miền núi – những nơi dễ bị ảnh hưởng bởi vấn nạn này.

Ngoài ra, trong nỗ lực nâng cao năng lực phòng chống buôn người, Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật và xây dựng các chương trình hành động cụ thể. Luật Phòng, chống mua bán người sửa đổi năm 2022 được xem là một bước tiến lớn trong công tác này, với các quy định bổ sung nhằm bảo vệ tốt hơn quyền lợi của các nạn nhân và tăng cường truy tố tội phạm. Đặc biệt, Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã giúp thống nhất quy trình xử lý các vụ án liên quan đến buôn người, tạo ra nền tảng pháp lý vững chắc hơn.

Việt Nam luôn tích cực hợp tác quốc tế để chống lại nạn buôn người

Buôn người là tội phạm xuyên quốc gia, vì vậy việc hợp tác quốc tế là điều thiết yếu. Từ năm 2021 đến nay, Việt Nam đã ký kết nhiều thỏa thuận hợp tác với các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia, đồng thời tham gia vào các chương trình chống buôn người của ASEAN và Liên Hợp Quốc. Nhờ đó, trong năm 2023, Việt Nam đã phối hợp với các cơ quan quốc tế giải cứu được hơn 1.000 nạn nhân bị bán sang nước ngoài và triệt phá hàng chục đường dây buôn người.

Một thành công đáng chú ý trong năm 2023 là việc phát hiện và triệt phá một đường dây buôn người lớn qua biên giới Việt Nam - Trung Quốc, với hơn 30 đối tượng bị bắt giữ và hơn 200 nạn nhân được giải cứu. Điều này chứng minh rằng hợp tác quốc tế, khi được thực hiện đúng đắn, có thể đem lại những kết quả đáng kể.

Công tác hỗ trợ nạn nhân và tái hòa nhập cộng đồng khác xa với đánh giá TIP 

Chính phủ Việt Nam luôn quan tâm đến việc hỗ trợ các nạn nhân sau khi họ được giải cứu. Trong năm 2023, các trung tâm bảo trợ xã hội trên toàn quốc đã tiếp nhận và hỗ trợ hơn 600 nạn nhân, cung cấp cho họ chỗ ở tạm thời, tư vấn tâm lý, chăm sóc y tế và hỗ trợ pháp lý. Một chương trình đào tạo nghề cho nạn nhân buôn người cũng được khởi động vào đầu năm 2024, giúp họ có cơ hội tái hòa nhập cộng đồng và tìm được việc làm ổn định.

Việc bảo vệ quyền lợi của các nạn nhân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em, vẫn là một ưu tiên hàng đầu của chính phủ. Các chính sách tái hòa nhập cộng đồng không chỉ tập trung vào cung cấp dịch vụ hỗ trợ ngắn hạn mà còn hướng đến việc xây dựng một môi trường bền vững giúp các nạn nhân tránh bị tổn thương một lần nữa.

Thách thức và những bước tiến tiếp theo

Dĩ nhiên, mặc dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực trong việc phòng chống buôn người, nhưng Việt Nam vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức. Sự phức tạp của các tổ chức buôn người và việc sử dụng công nghệ để che giấu các hoạt động phi pháp đang gia tăng. Theo thống kê từ Bộ Công an, các vụ án buôn người sử dụng các nền tảng trực tuyến đã tăng hơn 30% trong năm 2023, khiến việc phát hiện và xử lý trở nên khó khăn hơn.

Nhưng không thể phủ nhận rằng, vấn đề buôn người tại Việt Nam đang được xử lý một cách nghiêm túc và có hệ thống, với nhiều nỗ lực từ cả chính phủ và cộng đồng quốc tế. Những kết quả đạt được cho thấy Việt Nam đang đi đúng hướng trong việc ngăn chặn tội phạm buôn người và bảo vệ quyền lợi cho các nạn nhân.

Nghịch lý của Hoa Kỳ với Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em (CRC)

 


Nhân chuyện, Hoa Kỳ là quốc gia thành viên duy nhất của Liên hợp quốc chưa phê chuẩn Liên hợp quốc về Quyền trẻ em (CRC). Đây là hiệp ước nhân quyền quốc tế được phê chuẩn nhiều nhất cho đến nay. Kể từ khi thông qua vào năm 1989, 196 quốc gia đã phê chuẩn CRC, cam kết bảo vệ trẻ em khỏi bạo lực và bóc lột, đồng thời đảm bảo giáo dục và phát triển lành mạnh cho trẻ em.



Nhiều người ở Hoa Kỳ cho rằng, ngay cả khi không phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em, Hoa Kỳ vẫn duy trì các nguyên tắc quốc tế về quyền trẻ em. Tuy nhiên, thực tiễn còn nhiều bất cập dưới đây lý giải nguyên nhân Hoa Kỳ chưa thể phê chuẩn nổi Công ước này qua báo cáo đầy đủ gửi tới tổ chức Quan sát nhân quyền quốc tế HRW với con số thống kê kỹ lưỡng.

Xem link   https://www-hrw-org.translate.goog/feature/2022/09/13/how-do-states-measure-up-child-rights?_x_tr_sl=en&_x_tr_tl=vi&_x_tr_hl=vi&_x_tr_pto=sc

Đọc báo cáo dưới đây cho ta thấy, vấn đề bảo vệ quyền trẻ em, chống lao động cưỡng bức, lạm dụng lao động trẻ em là vấn đề nhức nhối, khoogn dễ dàng giải quyết, nhưng lợi dụng vào vấn đề nan giải này để áp đăt tiêu chuẩn, chân lý như việc làm của Bộ Lao động Mỹ trong khi họ chưa giải được bài toán của chính mình thì thực khôi hài

Báo cáo phản ánh khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến bốn vấn đề cốt lõi về quyền trẻ em: tảo hôn, trừng phạt thân thể, lao động trẻ em và công lý vị thành niên. Hầu hết các tiểu bang của Hoa Kỳ đều không tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế về quyền trẻ em đối với bốn vấn đề này.

LỊCH SỬ HOA KỲ VỚI CRC

Chính phủ Hoa Kỳ và các chuyên gia về quyền trẻ em Hoa Kỳ là những người đóng góp quan trọng vào các lý tưởng và văn bản của Công ước. Các quan chức từ chính quyền của cựu Tổng thống Hoa Kỳ Ronald Reagan đã rất tích cực trong các cuộc đàm phán về CRC và đề xuất nhiều điều khoản của công ước. [1] Một mạng lưới đa dạng các nhà hoạt động và nhà tâm lý học Hoa Kỳ đã hợp tác với các chuyên gia từ khắp nơi trên thế giới để cung cấp ý kiến đóng góp, dẫn đến việc thông qua Công ước vào năm 1989. [2] 

Nhiều người dân Hoa Kỳ đánh giá cao các biện pháp bảo vệ được Công ước CRC đưa ra, bao gồm bảo vệ trẻ em khỏi bạo lực và bóc lột, quyền được giáo dục, chăm sóc sức khỏe và mức sống đầy đủ của trẻ em.

Không chỉ các quan chức, chuyên gia và người ủng hộ Hoa Kỳ đóng góp vào sự phát triển của CRC mà dữ liệu thăm dò ý kiến cho thấy rằng theo đường lối của các đảng, bốn trong số năm người dân Hoa Kỳ ủng hộ việc phê chuẩn CRC. [3]

TẠI SAO LẠI TẬP TRUNG VÀO TỪNG TIỂU BANG CỦA HOA KỲ?

Tại Hoa Kỳ, nhiều vấn đề được Công ước giải quyết được giao cho thẩm quyền của từng tiểu bang, không phải chính quyền liên bang. Do đó, việc bảo vệ và thúc đẩy quyền trẻ em khác nhau giữa các tiểu bang.

Nhận ra rằng cải cách cấp tiểu bang là một kênh quan trọng để cải thiện hồ sơ quyền trẻ em của Hoa Kỳ, đánh giá này xếp hạng các tiểu bang Hoa Kỳ về mức độ bảo vệ pháp lý mà họ dành cho trẻ em của mình về bốn vấn đề chính - hôn nhân trẻ em, hình phạt thân thể, lao động trẻ em và tư pháp vị thành niên - và đưa ra một bản thiết kế cho cải cách. Tất cả 50 tiểu bang được đánh giá theo bốn hạng mục này thông qua đánh giá 12 luật cụ thể cấp tiểu bang.

ĐIỂM CỦA TIỂU BANG

Kết luận thật đáng báo động: Phần lớn các tiểu bang của Hoa Kỳ không đáp ứng được các tiêu chuẩn quan trọng do CRC đặt ra.



Nhìn chung, 16 tiểu bang nhận được điểm F. Trong số các tiểu bang còn lại, 27 tiểu bang nhận được điểm D, 7 tiểu bang nhận được điểm C và không có tiểu bang nào nhận được điểm B hoặc A.

  A (0 tiểu bang)

  B (0 tiểu bang)

  C (7 tiểu bang)

  D (27 tiểu bang)

  F (16 tiểu bang)

XẾP HẠNG CỦA TIỂU BANG

Công ước Công ước Liên hợp quốc về Quyền trẻ em (CRC) là hiệp ước nhân quyền quốc tế được phê chuẩn nhiều nhất cho đến nay. Kể từ khi thông qua vào năm 1989, 196 quốc gia đã phê chuẩn CRC, cam kết bảo vệ trẻ em khỏi bạo lực và bóc lột, đồng thời đảm bảo giáo dục và phát triển lành mạnh cho trẻ em.

Hoa Kỳ là quốc gia thành viên duy nhất của Liên hợp quốc chưa phê chuẩn Công ước này.

Nhiều người ở Hoa Kỳ cho rằng, ngay cả khi không phê chuẩn Công ước về Quyền trẻ em, Hoa Kỳ vẫn duy trì các nguyên tắc quốc tế về quyền trẻ em. Đánh giá này đặt ra câu hỏi về giả định đó. Trên cơ sở từng tiểu bang, chúng tôi đã đánh giá cách luật của tiểu bang đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến bốn vấn đề cốt lõi về quyền trẻ em: tảo hôn, trừng phạt thân thể, lao động trẻ em và công lý vị thành niên. Chúng tôi thấy rằng hầu hết các tiểu bang của Hoa Kỳ đều không tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế về quyền trẻ em đối với bốn vấn đề này.

THỨ NHẤT, KẾT HÔN TRẺ EM

KẾT HÔN TRẺ EM được định nghĩa là cuộc hôn nhân mà một hoặc cả hai bên đều dưới 18 tuổi.

TIÊU CHUẨN QUỐC TẾ DO CRC ĐẶT RA: Ủy ban về Quyền trẻ em “nhắc nhở các quốc gia thành viên về nghĩa vụ công nhận rằng những người dưới 18 tuổi có quyền được tiếp tục bảo vệ khỏi mọi hình thức bóc lột và lạm dụng. Ủy ban tái khẳng định rằng độ tuổi tối thiểu để kết hôn phải là 18 tuổi.” [4]

TUỔI TỐI THIỂU ĐỂ KẾT HÔN PHẢI LÀ 18 TUỔI

Nghiên cứu của Unchained at Last phát hiện ra rằng hơn một phần tư triệu trẻ em, một số chỉ mới 10 tuổi, đã kết hôn ở Hoa Kỳ trong giai đoạn 2000-2018. Hầu hết các cuộc hôn nhân trẻ em ở Hoa Kỳ là các bé gái kết hôn với đàn ông trưởng thành. Trên thực tế, nhiều cuộc hôn nhân trong số này xảy ra ở độ tuổi hoặc có sự chênh lệch tuổi tác giữa vợ và chồng mà thông thường được coi là bạo lực tình dục.

Hôn nhân trẻ em là hợp pháp ở 41 tiểu bang. Tiểu bang đầu tiên cấm hôn nhân trẻ em là Delaware vào năm 2018.

Độ tuổi tối thiểu để kết hôn ở Hoa Kỳ:

  15 tuổi (2 tiểu bang)

  16 tuổi (24 tiểu bang)

  17 tuổi (9 tiểu bang)

  18 tuổi (tuân thủ CRC - 9 tiểu bang)

  Không có độ tuổi tối thiểu để kết hôn (6 tiểu bang)

THỨ 2: HÌNH PHẠT THÂN THỂ

HÌNH PHẠT THÂN THỂ được định nghĩa là bất kỳ hình phạt nào trong đó sử dụng vũ lực vật lý và nhằm mục đích gây ra một mức độ đau đớn hoặc khó chịu nào đó, dù nhẹ. [5]

TIÊU CHUẨN QUỐC TẾ DO CRC ĐẶT RA: Điều 19 của CRC yêu cầu các quốc gia bảo vệ trẻ em “khỏi mọi hình thức bạo lực về thể chất và tinh thần”. [6] Ủy ban về Quyền trẻ em khẳng định rằng CRC “không để chỗ cho bất kỳ mức độ bạo lực hợp pháp nào đối với trẻ em” và rằng “hình phạt thân thể và các hình thức trừng phạt tàn ác hoặc hạ nhục khác là các hình thức bạo lực và các quốc gia phải thực hiện mọi biện pháp lập pháp, hành chính, xã hội và giáo dục thích hợp để xóa bỏ chúng”. [7]

Dựa trên các tiêu chuẩn quốc tế này, phần này sẽ xem xét tính hợp pháp của hình phạt thể xác trên tất cả 50 tiểu bang Hoa Kỳ trong bốn bối cảnh chính:

                                 I. Trường học (công lập và tư thục);

                                II. Nhà ở;

                              III. Các thiết lập chăm sóc thay thế; và

                              IV. Các cơ sở hình sự

Năm 2014, Ủy ban Nhân quyền đã xem xét việc Hoa Kỳ tuân thủ Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, được Hoa Kỳ phê chuẩn vào năm 1992, nêu rằng họ "quan ngại về hình phạt thể xác đối với trẻ em ở trường học, cơ sở hình sự, gia đình và mọi hình thức chăm sóc trẻ em ở cấp liên bang, tiểu bang và địa phương". Ủy ban đã khuyến nghị Hoa Kỳ chấm dứt hợp pháp hình phạt thể xác và "tiến hành các chiến dịch thông tin công cộng để nâng cao nhận thức về những tác hại của nó". [8]

I. PHẠT THÂN THỂ NÊN BỊ CẤM Ở TRƯỜNG HỌC

Khoảng 160.000 trẻ em phải chịu hình phạt thể xác ở trường học mỗi năm. [9] Thực hành này được phát hiện là không hiệu quả trong việc sửa đổi hành vi của trẻ em và gây hại cho sự phát triển của trẻ. [10] Hình phạt thể xác có liên quan đến nhiều tác động tiêu cực đến sức khỏe thể chất và tình cảm của trẻ cũng như khả năng hình thành và quản lý các mối quan hệ tích cực của trẻ. [11] Hình phạt thể xác cũng liên quan đến tỷ lệ hung hăng cao hơn và thành tích học tập thấp hơn. [12] Trẻ em da đen và trẻ em khuyết tật có nhiều khả năng phải chịu hình phạt thể xác ở trường học hơn đáng kể. [13] Đây là một hành vi vi phạm bổ sung đối với CRC vì Điều 2 cấm phân biệt đối xử dưới mọi hình thức, bao gồm cả phân biệt đối xử dựa trên chủng tộc hoặc tình trạng khuyết tật.

Chỉ có ba tiểu bang cấm hình phạt thể xác ở cả trường công và trường tư, tuân thủ theo CRC. Hai mươi lăm tiểu bang chỉ cấm hình phạt thể xác ở trường công, nghĩa là trẻ em học trường tư vẫn có thể bị phạt thể xác ở trường. Trong khi đó, ở 22 tiểu bang, hình phạt thể xác là hợp pháp ở cả trường công và trường tư.

Hình phạt thân thể trong trường công và trường tư

  Bị cấm ở các trường công và tư (tuân thủ CRC - 3 tiểu bang)

  Cấm ở trường công, không cấm ở trường tư (25 tiểu bang)

  Không bị cấm ở trường công hoặc trường tư (22 tiểu bang)

Hình phạt thân thể như một hình thức kỷ luật của trường học “trực tiếp xung đột với các quyền bình đẳng và bất khả xâm phạm của trẻ em.” – Ủy ban về Quyền trẻ em [14]

II. CẤM HÌNH PHẠT THÂN THỂ TRONG GIA ĐÌNH

Theo báo cáo, 49 phần trăm trẻ em từ 0 đến 9 tuổi ở Hoa Kỳ phải chịu hình phạt thể xác tại nhà. [15] Không một tiểu bang nào của Hoa Kỳ cấm hình phạt thể xác trong môi trường gia đình.

Một số tiểu bang liệt kê một số loại vũ lực cực đoan không được phép, chẳng hạn như vũ lực dẫn đến tử vong hoặc biến dạng, trong khi những tiểu bang khác lại vạch ra ranh giới ở vũ lực “hợp lý”. [16] Kết quả của những hệ thống này có thể là khả năng miễn nhiễm với hành vi ngược đãi trẻ em được ngụy trang dưới hình thức kỷ luật. [17]

Hình phạt thể xác trong gia đình

  Bị cấm (tuân thủ CRC - 0 tiểu bang)

  Không bị cấm (50 tiểu bang)

Phóng to+Thu nhỏ lại-

III. PHẠT THÂN THỂ NÊN BỊ CẤM TRONG CÁC CƠ SỞ CHĂM SÓC THAY THẾ

Ở Hoa Kỳ, việc sử dụng hình phạt thể xác trong các cơ sở chăm sóc thay thế—chẳng hạn như chăm sóc nuôi dưỡng và nhà nhóm—từ trước đến nay vẫn rất phổ biến và nghiêm trọng, đặc biệt là đối với trẻ em khuyết tật. [ 18] Các cuộc điều tra cho thấy quy mô lạm dụng trong các cơ sở chăm sóc thay thế đã bị báo cáo thiếu nghiêm trọng [19] và đặc biệt nghiêm trọng, [20] theo một số báo cáo lên tới mức tra tấn. [21]

Hầu hết các tiểu bang Hoa Kỳ đã cấm hình phạt thể xác trong các cơ sở chăm sóc thay thế. Mười tiểu bang không thực hiện được chỉ vì hạn chế hình phạt thể xác. Nam Carolina là tiểu bang duy nhất không ban hành hướng dẫn pháp lý nào về hình phạt thể xác trong các cơ sở chăm sóc thay thế.

Hình phạt thân thể trong các cơ sở chăm sóc thay thế

  Bị cấm (tuân thủ CRC - 39 tiểu bang)

  Bị hạn chế (10 tiểu bang)

  Không bị cấm (1 tiểu bang)

Nguồn: Quan hệ đối tác toàn cầu nhằm chấm dứt bạo lực đối với trẻ em

IV. PHẠT THÂN THỂ PHẢI BỊ CẤM TRONG CÁC CƠ SỞ XỬ PHẠT

Việc ngược đãi trẻ em tại các trung tâm giam giữ vị thành niên đã được ghi nhận ở hầu hết mọi tiểu bang của Hoa Kỳ. [22] Một nghiên cứu phát hiện ra rằng việc ngược đãi “có hệ thống hoặc tái diễn” đã được ghi nhận tại các cơ sở cải tạo vị thành niên ở ít nhất 14 tiểu bang sau năm 2011. [23] Một cuộc khảo sát toàn quốc về thanh thiếu niên trong các cơ sở cải tạo cho thấy 45 phần trăm cho biết nhân viên “sử dụng vũ lực khi họ thực sự không cần thiết”. [24] Hình phạt thân thể trong các cơ sở hình sự vẫn hợp pháp ở 16 tiểu bang.

Hình phạt thân thể trong các cơ sở hình sự

  Bị cấm (tuân thủ CRC - 33 tiểu bang)

  Không bị cấm (16 tiểu bang)

  Không rõ (1 trạng thái)

THỨ 3: LAO ĐỘNG TRẺ EM

LAO ĐỘNG TRẺ EM được định nghĩa là công việc tước đoạt tuổi thơ, tiềm năng và phẩm giá của trẻ em và gây hại cho sự phát triển thể chất và tinh thần của trẻ. Việc một số hình thức “công việc” cụ thể có thể được gọi là “lao động trẻ em” hay không tùy thuộc vào độ tuổi của trẻ, loại và giờ làm việc được thực hiện, cũng như các điều kiện thực hiện công việc đó. [25]

TIÊU CHUẨN QUỐC TẾ DO CRC ĐẶT RA: Điều 32 của CRC bảo vệ trẻ em khỏi công việc nguy hiểm hoặc có hại cho sức khỏe, sự an toàn, giáo dục và sự phát triển đạo đức của trẻ và yêu cầu các quốc gia thành viên phải ấn định độ tuổi tối thiểu để được làm việc. [26] Trong Bình luận chung số 20, Ủy ban về Quyền trẻ em tái khẳng định các nguyên tắc trong Công ước về Độ tuổi tối thiểu của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) (Công ước số 138) tuyên bố rằng độ tuổi tối thiểu để được làm việc là 15 [27] và độ tuổi tối thiểu để được làm việc trong điều kiện nguy hiểm là 18. [28] Điều 5 của Công ước số 138 nêu rõ rằng các nguyên tắc của công ước này áp dụng cho lĩnh vực nông nghiệp.

LAO ĐỘNG TRẺ EM TRONG BỐI CẢNH CỦA HOA KỲ: MIỄN TRỪ CHO NGÀNH NÔNG NGHIỆP

Các điều khoản lao động trẻ em liên bang trong Đạo luật Tiêu chuẩn Lao động Công bằng (FLSA) phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế này để cấm lao động trẻ em trong hầu hết các lĩnh vực. Tuy nhiên, các luật này miễn trừ rõ ràng cho ngành nông nghiệp, ngành nguy hiểm nhất đối với lao động trẻ em. [29] Các biện pháp bảo vệ yếu kém khiến trẻ em trên khắp đất nước phải chịu những điều kiện đe dọa sức khỏe, sự an toàn và giáo dục của chúng – vi phạm luật pháp quốc tế.

Theo luật liên bang, trẻ em dưới 18 tuổi có thể làm việc thuê trong ngành nông nghiệp ở độ tuổi trẻ hơn, làm việc nhiều giờ hơn và trong điều kiện nguy hiểm hơn bất kỳ ngành nào khác. Trong ngành nông nghiệp, trẻ em 12 tuổi có thể làm việc toàn thời gian và trẻ em ở bất kỳ độ tuổi nào cũng có thể làm việc bán thời gian tại một trang trại. Trong một trang trại gia đình, không có độ tuổi tối thiểu để trẻ em được làm việc toàn thời gian. Trẻ em từ 16 đến 17 tuổi được phép làm việc trong điều kiện nguy hiểm trong ngành nông nghiệp; trong các ngành công nghiệp khác, công việc nguy hiểm bị cấm cho đến khi đủ 18 tuổi.

I. ĐỘ TUỔI TỐI THIỂU ĐỂ LÀM VIỆC TRONG NGÀNH NÔNG NGHIỆP LÀ 15 TUỔI

Hàng ngàn trẻ em làm việc trong ngành nông nghiệp Hoa Kỳ ở độ tuổi bị cấm trong mọi lĩnh vực khác. [32]

Trẻ em làm việc trong trang trại thường bắt đầu làm việc trên đồng ruộng ở độ tuổi 11 hoặc 12, và Tổ chức Theo dõi Nhân quyền đã phỏng vấn trẻ em làm việc trong trang trại từ khi mới 7 tuổi. [33]

Không có quốc gia nào tuân thủ Công ước về quyền trẻ em bằng cách quy định độ tuổi lao động tối thiểu là 15 tuổi trong lĩnh vực nông nghiệp.

Độ tuổi tối thiểu để làm việc trong ngành nông nghiệp

  15 tuổi (tuân thủ CRC - 0 tiểu bang)

  14 tuổi (12 tiểu bang)

  13 tuổi (1 tiểu bang)

  12 tuổi (11 tiểu bang)

  10 tuổi (2 tiểu bang)

  9 tuổi (1 tiểu bang)

  Không có độ tuổi tối thiểu (23 tiểu bang)

II. ĐỘ TUỔI TỐI THIỂU ĐỂ LÀM VIỆC NGUY HIỂM TRONG NGÀNH NÔNG NGHIỆP LÀ 18 TUỔI

Nhiều trẻ em lao động ở Hoa Kỳ tử vong trong ngành nông nghiệp hơn bất kỳ ngành nào khác. [34] Cứ ba ngày lại có một trẻ em tử vong trong một vụ tai nạn nông trại ở Hoa Kỳ, [35] và mỗi ngày, ít nhất 33 trẻ em bị thương khi làm việc tại các trang trại ở Hoa Kỳ [36] mặc dù có thể có nhiều hơn bốn lần số ca thương tích được báo cáo do phương pháp giám sát và báo cáo không đầy đủ. [37] Theo ghi nhận của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ, nhiều trường hợp tử vong liên quan đến máy móc chạy bằng điện mà trong bất kỳ ngành nào ngoài nông nghiệp, trẻ em đều được bảo vệ. Điều kiện canh tác nguy hiểm và tác động của chúng ảnh hưởng không cân xứng đến trẻ em di cư và trẻ em da màu. [38]

Không một quốc gia nào tuân thủ Công ước về Quyền trẻ em bằng cách quy định độ tuổi tối thiểu để làm việc trong điều kiện nguy hiểm trong nông nghiệp là 18 tuổi.

Mười hai tiểu bang có các biện pháp bảo vệ mạnh hơn tiêu chuẩn liên bang. Chi tiết của các tiêu chuẩn này khác nhau – ví dụ California có các biện pháp bảo vệ mạnh hơn đối với trẻ em dưới 12 tuổi làm việc tại các trang trại gia đình. Massachusetts là tiểu bang duy nhất cấm trẻ vị thành niên dưới 16 tuổi làm việc tại các cánh đồng thuốc lá. Oregon cấm tất cả trẻ vị thành niên vận hành máy móc điện. Trong số tất cả các tiểu bang, Florida có tiêu chuẩn mạnh nhất, quy định độ tuổi tối thiểu là 16 và cũng cấm tất cả trẻ vị thành niên dưới 18 tuổi làm việc trong một số điều kiện nông nghiệp nguy hiểm.

Bảo vệ trẻ em lao động khỏi những điều kiện nguy hiểm trong ngành nông nghiệp

Độ tuổi tối thiểu để làm lao động nguy hiểm trong ngành nông nghiệp là:

  18 không có ngoại lệ (tuân thủ CRC - 0 tiểu bang)

  16 nhưng có thêm sự bảo vệ cho tất cả trẻ vị thành niên từ 18 tuổi trở xuống (1 tiểu bang)

  16 tiểu bang có các biện pháp bảo vệ bổ sung hạn chế cho một số trẻ em làm việc trong trang trại (11 tiểu bang)

  16 không có biện pháp bảo vệ bổ sung (Tiêu chuẩn liên bang - 38 tiểu bang)

  Không có độ tuổi tối thiểu cho lao động nguy hiểm (0 tiểu bang)

SỐ 4: CÔNG LÝ VỚI TRẺ VỊ THÀNH NIÊN

CÔNG LÝ VỚI TRẺ EM đề cập đến việc đối xử với trẻ em vi phạm pháp luật.

TIÊU CHUẨN QUỐC TẾ DO CRC ĐẶT RA: CRC thiết lập một bộ tiêu chuẩn quốc tế mạnh mẽ “để ngăn chặn trẻ em và thanh thiếu niên tham gia vào các hoạt động tội phạm cũng như bảo vệ quyền con người của những thanh thiếu niên đã bị phát hiện vi phạm pháp luật.” [39]

Phần này xem xét các tiêu chuẩn quốc tế liên quan đến:

      I. Độ tuổi tối thiểu của quyền tài phán vị thành niên

     II. Thử nghiệm trẻ em như người lớn

   III. Tù chung thân không ân xá vị thành niên

Độ tuổi tối thiểu của quyền hạn vị thành niên phải ít nhất là 14 tuổi

Điều 40 của CRC kêu gọi các quốc gia thiết lập “độ tuổi tối thiểu mà trẻ em dưới độ tuổi đó được coi là không có khả năng vi phạm luật hình sự”. Ủy ban về Quyền trẻ em đã làm rõ rằng độ tuổi tối thiểu của quyền tài phán dành cho vị thành niên phải là ít nhất 14 tuổi và khuyến khích các quốc gia đặt ở mức 16. [40]

KHÔNG CÓ TRẺ EM NÊN BỊ KHỞI TỐ NHƯ NGƯỜI LỚN

Ủy ban về Quyền trẻ em đã nhắc lại rằng không có trẻ em nào bị xét xử trong hệ thống tư pháp hình sự dành cho người lớn, bất kể loại tội danh nào. [41]

BẢN ÁN TỘI CHUNG KHÔNG ĐƯỢC THAM GIA (JLWOP) DÀNH CHO VẺ THÀNH NIÊN NÊN BỊ CẤM

Điều 37 của CRC cấm việc kết án trẻ em tù chung thân mà không có khả năng được trả tự do. [42]

I. ĐỘ TUỔI TỐI THIỂU CỦA NGƯỜI VỊ THÀNH NIÊN PHẢI LÀ 14 TUỔI

Tại Hoa Kỳ, hơn 30.000 trẻ em dưới 12 tuổi được đưa đến tòa án vị thành niên hàng năm. [43]   Không một tiểu bang nào đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế để đặt độ tuổi tối thiểu của quyền tài phán vị thành niên là ít nhất 14 tuổi, một tiêu chuẩn được Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ (AMA) chứng thực vào tháng 11 năm 2022. [43a]   Chỉ có tám tiểu bang đặt độ tuổi tối thiểu cao hơn 10 tuổi. Gần một nửa không có độ tuổi tối thiểu.

Độ tuổi tối thiểu của Quyền tài phán vị thành niên

  14 tuổi (Tuân thủ CRC - 0 tiểu bang)

  13 tuổi (2 tiểu bang)

  12 tuổi (5 tiểu bang)

  11 tuổi (1 tiểu bang)

  10 tuổi (15 tiểu bang)

  8 tuổi (1 tiểu bang)

  7 tuổi (2 tiểu bang)

  Không có độ tuổi tối thiểu (24 tiểu bang)

Nguồn: Mạng lưới Tư pháp vị thành niên quốc gia

II. KHÔNG NÊN XỬ TRẺ EM NHƯ NGƯỜI LỚN

Ở Hoa Kỳ, hơn 50.000 trẻ em bị đưa ra xét xử tại tòa án dành cho người lớn mỗi năm. [44]

Nhiều tiểu bang trước đây đã truy tố tất cả những người 17 tuổi (hoặc trong một số trường hợp là 16 tuổi) tại tòa án dành cho người lớn đối với mọi tội danh. Trong thập kỷ qua, hầu hết các tiểu bang đã hạn chế việc xét xử những người 17 tuổi như người lớn thông qua luật "Nâng độ tuổi". Chỉ có ba tiểu bang vẫn xét xử tất cả những người 17 tuổi như người lớn đối với mọi tội danh.

Tuy nhiên, bất chấp “Raising the Age”, tất cả các tiểu bang đều duy trì các quy trình pháp lý để chuyển trẻ em sang tòa án người lớn trong một số trường hợp nhất định. [45] Các quy trình chuyển giao có thể có nhiều hình thức khác nhau: thẩm phán có thể miễn trừ việc chuyển trẻ em sang tòa án người lớn, công tố viên có thể quyết định truy tố trẻ em tại tòa án người lớn hoặc ở một số tiểu bang, trẻ em được chuyển đến tòa án người lớn nếu bị buộc tội phạm các tội cụ thể. Chỉ có 28 tiểu bang có một số hình thức giới hạn độ tuổi đối với các quy trình chuyển giao này – 22 tiểu bang cho phép các quy trình này áp dụng cho trẻ em ở mọi lứa tuổi. CRC nêu rõ rằng không trẻ em nào nên bị truy tố như người lớn ở mọi lứa tuổi hoặc vì bất kỳ tội phạm nào.

Như có thể thấy trong biểu đồ bên dưới, không có một tiểu bang nào tuân thủ Công ước CRC trong việc chấm dứt việc chuyển giao trẻ em sang tòa án người lớn.

Ủy ban về Quyền trẻ em lên án hành vi xét xử trẻ em như người lớn. Ủy ban đã thúc giục các quốc gia cho phép trẻ em được đối xử như tội phạm trưởng thành “thay đổi luật pháp của họ nhằm đạt được mục tiêu áp dụng đầy đủ không phân biệt đối xử các quy tắc tư pháp vị thành niên của họ đối với tất cả những người dưới 18 tuổi”. [46]

Trẻ em ở độ tuổi nào có thể được chuyển đến tòa án người lớn?

  Không trẻ em nào dưới 18 tuổi có thể bị xét xử như người lớn (tuân thủ CRC - 0 tiểu bang)

  16 tuổi trở lên trong một số trường hợp nhất định (1 tiểu bang)

  15 tuổi trở lên trong một số trường hợp nhất định (2 Tiểu bang)

  14 tuổi trở lên trong một số trường hợp nhất định (16 tiểu bang)

  13 tuổi trở lên trong một số trường hợp nhất định (4 tiểu bang)

  12 tuổi trở lên trong một số trường hợp nhất định (4 tiểu bang)

  Trẻ em ở mọi lứa tuổi trong những trường hợp nhất định (20 tiểu bang)

  Người 17 tuổi tự động được xét xử như người lớn. Trẻ em từ 14 tuổi trở lên có thể được chuyển đi trong một số trường hợp nhất định (1 tiểu bang)

  Người 17 tuổi tự động được xét xử như người lớn. Trẻ em ở mọi lứa tuổi có thể được chuyển đến tòa án người lớn trong một số trường hợp nhất định (2 tiểu bang)

Phóng to+Thu nhỏ lại-

Nguồn: Dự án tuyên án & Quyền con người cho trẻ em

III. KHÔNG NÊN KẾT ÁN TRẺ EM CHUNG THÂN MÀ KHÔNG ĐƯỢC TẠM DỪNG

Vào đầu năm 2020, có khoảng 1.465 cá nhân ở Hoa Kỳ đang thụ án tù chung thân không ân xá vì những tội danh phạm phải khi còn nhỏ. [47] Trẻ em chỉ mới 13 tuổi đã bị kết án phải ngồi tù suốt đời mà không có khả năng được thả. [48]

Hai mươi tám tiểu bang và Washington, DC cấm trẻ vị thành niên bị kết án tù chung thân không ân xá (JLWOP) trong khi 22 tiểu bang còn lại cho phép trẻ em bị kết án JLWOP.

 

Ủy ban Liên hợp quốc về xóa bỏ phân biệt chủng tộc đã thúc giục Hoa Kỳ chấm dứt việc sử dụng án tù chung thân không ân xá đối với trẻ em phạm tội, lưu ý đến tác động không cân xứng của nó đối với các nhóm thiểu số về chủng tộc, dân tộc và quốc gia. [49] Sáu mươi hai phần trăm những người đang thụ án JLWOP và những người có dữ liệu về chủng tộc là người Mỹ gốc Phi mặc dù chỉ chiếm 14 phần trăm tổng dân số thanh thiếu niên ở Hoa Kỳ. [50]

Bản án tù chung thân không ân xá cho vị thành niên

  Bị cấm (tuân thủ CRC - 28 tiểu bang)

  Không bị cấm (22 tiểu bang)

Nguồn: Chiến dịch vì Bản án công bằng cho thanh thiếu niên

Phụ lục

[1] “Hoa Kỳ cùng với Somalia và Nam Sudan không hỗ trợ quyền trẻ em | Liên đoàn Tự do Dân sự Hoa Kỳ.” Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2022. https://www.aclu.org/blog/speakeasy/us-joins-somalia-and-south-sudan-failing-support-child-rights.

[2] Gardiner, Alexandra. “Quyền trẻ em: Tại sao Hoa Kỳ nên phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em,” nd, 55.

[3] “Kết quả thăm dò: Công ước về Quyền trẻ em | First Focus on Children,” truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2021, https://firstfocus.org/resources/polling-and-opinion-research/poll-results-convention-rights-child-2.

[4] Ủy ban Liên hợp quốc về Quyền trẻ em (CRC), Bình luận chung số 20, Thực hiện quyền trẻ em trong thời kỳ vị thành niên, CRC/C/GC/20 (2016), https://digitallibrary.un.org/record/855544?ln=en (truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2022), đoạn 40.

[5] Ủy ban Liên hợp quốc về Quyền trẻ em, Bình luận chung số 8, Quyền của trẻ em được bảo vệ khỏi hình phạt thân thể và các hình phạt tàn ác hoặc hạ nhục khác, CRC/C/GC/8 (2007), https://digitallibrary.un.org/record/583961?ln=en (truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2022), đoạn 11.

[6] Sáng kiến toàn cầu chấm dứt mọi hình phạt thể xác đối với trẻ em: Ít nhất 63 quốc gia đã cấm mọi hình phạt thể xác đối với trẻ em. Xem: Chấm dứt hình phạt thể xác, “Đếm ngược”, không có ngày tháng, https://endcorporalpunishment.org/countdown/ (truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2022).

[7] Ủy ban Liên hợp quốc về Quyền trẻ em, Bình luận chung số 8, Quyền của trẻ em được bảo vệ khỏi hình phạt thân thể và các hình phạt tàn ác hoặc hạ nhục khác, Error! Tham chiếu siêu liên kết không hợp lệ.đoạn 18; xem thêm: Bình luận chung số 13, Quyền của trẻ em được tự do khỏi mọi hình thức bạo lực, CRC/C/GC/13 (2011), https://www2.ohchr.org/english/bodies/crc/docs/crc.c.gc.13_en.pdf (truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2022), đoạn 17, 24.

[8] Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc, “Những quan sát kết luận về Báo cáo định kỳ lần thứ 4 của Hoa Kỳ,” CCPR/C/USA/CO/4, ngày 23 tháng 4 năm 2014, https://digitallibrary.un.org/record/771176 (truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2022), đoạn 17.

[9] Elizabeth T. Gershoff và Sarah A. Font, “Hình phạt thân thể trong các trường công lập Hoa Kỳ: Sự phổ biến, chênh lệch trong việc sử dụng và tình trạng trong chính sách của tiểu bang và liên bang”,Báo cáo chính sách xã hội, tập 30, số 1 (2016): truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2022, doi: 10.1002/j.2379-3988.2016.tb00086.x.

[10] RA Dubanoski, M Inaba, và K Gerkewicz, “Hình phạt thân thể ở trường học: Huyền thoại, vấn đề và các giải pháp thay thế,” Lạm dụng và bỏ bê trẻ em, tập 7, số 3 (1983): trang 271–278, truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2022, doi: 10.1016/0145-2134(83)90004-2.

[11] Chấm dứt hình phạt thể xác, “Nghiên cứu”, không có ngày tháng, https://endcorporalpunishment.org/resources/research/ (truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2022).

[12] Elizabeth T, Gershoff và Susan H. Bitensky, “Vụ kiện chống lại hình phạt thể xác đối với trẻ em: Bằng chứng hội tụ từ nghiên cứu khoa học xã hội và luật nhân quyền quốc tế và ý nghĩa đối với chính sách công của Hoa Kỳ,” Tâm lý học, Chính sách công và Luật, tập 13, số 4 (2007): trang 231–272, truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2022, doi: 10.1037/1076-8971.13.4.231.

[13] Gershoff và Font, “Hình phạt thân thể trong các trường công lập Hoa Kỳ.”

[14] Ủy ban Liên hợp quốc về Quyền trẻ em, Bình luận chung số 8, Quyền của trẻ em được bảo vệ khỏi hình phạt thân thể và các hình phạt tàn ác hoặc hạ nhục khác, đoạn 11.Lỗi! Tham chiếu siêu liên kết không hợp lệ.

[15] Gershoff và Font, “Hình phạt thân thể trong các trường công lập Hoa Kỳ.”

[16] Như trên.

[17] Julie A. Auerbach, “Ranh giới giữa hình phạt thể xác và lạm dụng trẻ em”, Luật sư gia đình, cập nhật ngày 5 tháng 6 năm 2020, https://familylawyermagazine.com/articles/drawing-the-line-between-corporal-punishment-and-child-abuse/ (truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2022).

[18] Sáng kiến toàn cầu chấm dứt mọi hình phạt thể xác đối với trẻ em,Chấm dứt bạo lực hợp pháp đối với trẻ em: Cấm và loại bỏ hình phạt thể xác trong mọi cơ sở chăm sóc thay thế và chăm sóc ban ngày, cập nhật tháng 10 năm 2012,https://bettercarenetwork.org/sites/default/files/attachments/Ending%20Legalised%20Violence%20Against%20Children.pdf(truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2022).

[19] Diane DePanfilis et al., “Child Neglect: A Guide for Prevention, Assessment, and Intervention,” American Psychological Association (2006): truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2022,doi: 10.1037/e624592007-001.

[20] Carole Keeton Strayhorn,Forgotten Children: A Special Report on the Texas Foster Care Systemtháng 4 năm 2004, https://www.scribd.com/document/38352706/Carole-Keeton-Strayhorn-Texas-Comptroller-Forgotten-Children-2004 (truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2022).

[21] Các trường hợp đã “bao gồm sốc điện, hạn chế lâu dài, thiếu thức ăn và cô lập.” Laurie Ahern và Eric Rosenthal,Tra tấn không phải là điều trị: Sốc điện và hạn chế lâu dài tại Hoa Kỳ đối với trẻ em và người lớn khuyết tật tại Trung tâm Thẩm phán Rotenberg(Washington, DC: Tổ chức Quốc tế về Quyền của Người khuyết tật Tâm thần, 2010).

[22] Annie E. Casey Foundation, “Maltreatment of Youth in US Juvenile Corrections Facilities: An Update on Juvenile Correctional Facilities,” ngày 24 tháng 6 năm 2015, https://www.aecf.org/resources/maltreatment-of-youth-in-us-juvenile-corrections-facilities (truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2022).

[23] Ibid., tr. 20.

[24] Ibid., tr. 7.

[25] Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), “Lao động trẻ em là gì (IPEC),” không có ngày tháng, https://www.ilo.org/ipec/facts/lang--en/index.htm (truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2022).

[26] Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em (CRC), thông qua ngày 20 tháng 11 năm 1989, GA Res. 44/25, phụ lục, 44 UN GAOR Supp. (Số 49) tại 167, UN Doc. A/44/49 (1989), có hiệu lực từ ngày 2 tháng 9 năm 1990, điều 32.

[27] Ủy ban Liên hợp quốc về Quyền trẻ em (CRC), Bình luận chung số 20, Thực hiện quyền trẻ em trong thời kỳ vị thành niên, CRC/C/GC/20 (2016), https://digitallibrary.un.org/record/855544?ln=en (truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2022).

[28] Công ước số 138 của Tổ chức Lao động Quốc tế về Độ tuổi tối thiểu để được tuyển dụng vào làm việc (Công ước về Độ tuổi tối thiểu), được thông qua ngày 26 tháng 6 năm 1973, 1015 UNTS 297, có hiệu lực từ ngày 19 tháng 6 năm 1976.

[29] Margaret Wurth, “Nhiều trẻ em lao động ở Hoa Kỳ chết trong ngành nông nghiệp hơn bất kỳ ngành nào khác,” bình luận, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, ngày 4 tháng 12 năm 2018, https://www.hrw.org/news/2018/12/04/more-us-child-workers-die-agriculture-any-other-industry.

[30] Như trên.

[31] Công ước số 138 của Tổ chức Lao động Quốc tế về Độ tuổi tối thiểu để được tuyển dụng vào làm việc (Công ước về Độ tuổi tối thiểu), được thông qua ngày 26 tháng 6 năm 1973, 1015 UNTS 297, có hiệu lực từ ngày 19 tháng 6 năm 1976.

[32] Như trên.

[33] Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, “Những lĩnh vực nguy hiểm: Lao động trẻ em trong ngành nông nghiệp Hoa Kỳ,” (New York: Tổ chức Theo dõi Nhân quyền: 2010) https://www.hrw.org/sites/default/files/reports/crd0510webwcover_1.pdf. trang 5.

[34] Margaret Wurth, “Trẻ em làm việc trong điều kiện kinh hoàng tại Hoa Kỳ trong ngành nông nghiệp,” bình luận, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, ngày 13 tháng 11 năm 2019, https://www.hrw.org/news/2019/11/13/children-working-terrifying-conditions-us-agriculture

[35] Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh, Viện Quốc gia về An toàn và Sức khỏe Nghề nghiệp, Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh, “Tử vong do thương tích ở công nhân trẻ: tóm tắt lịch sử về các phát hiện giám sát và điều tra”, tháng 7 năm 2017, https://www.cdc.gov/niosh/docs/2017-168/pdfs/2017-168.pdf (truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2022).

[36] Trung tâm Quốc gia về Sức khỏe và An toàn Nông thôn và Nông nghiệp dành cho Trẻ em, “Bảng dữ kiện về Thương tích Nông nghiệp ở Trẻ em tại Hoa Kỳ năm 2020” https://www.marshfieldresearch.org/Media/Default/NFMC/PDFs/2018%20Child%20Ag%20Injury%20Factsheetpdf.pdf (truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2022)

[37] Leigh JP, Du J, McCurdy SA.“Ước tính về số lượng thương tích và bệnh tật nghề nghiệp không tử vong trong nông nghiệp của chính phủ Hoa Kỳ,”Ann Epidemiol, tập 24 số 4 (2014): trang 254–259, truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2022,

doi:10.1016/j.annepidem.2014.01.006

[38] Như trên.

[39] Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em (CRC), thông qua ngày 20 tháng 11 năm 1989, GA Res. 44/25, phụ lục, 44 UN GAOR Supp. (Số 49) tại 167, UN Doc. A/44/49 (1989), có hiệu lực từ ngày 2 tháng 9 năm 1990, điều 37 & 40.

[40] Ủy ban Liên hợp quốc về Quyền trẻ em, Bình luận chung số 24, Quyền trẻ em trong Hệ thống tư pháp trẻ em, Tài liệu Liên hợp quốc CRC/GC24 (2019), đoạn 22. https://www.ohchr.org/en/documents/general-comments-and-recommendations/general-comment-no-24-2019-childrens-rights-child

[41] Ibid., đoạn 29-30.

[42] Công ước của Liên hợp quốc về Quyền trẻ em (CRC), thông qua ngày 20 tháng 11 năm 1989, GA Res. 44/25, phụ lục, 44 UN GAOR Supp. (Số 49) tại 167, UN Doc. A/44/49 (1989), có hiệu lực từ ngày 2 tháng 9 năm 1990, điều 37.

[43] Laura S. Abrams và cộng sự, “Khi nào trẻ em quá nhỏ để ra Tòa án vị thành niên? Nghiên cứu trường hợp so sánh về Luật tiểu bang và việc thực hiện tại sáu khu vực đô thị lớn”, Tội phạm & Tội phạm vị thành niên, tập66, số 2 (2020): trang 219–49, truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2022, https://doi.org/10.1177/0011128719839356.

[43a] https://www.ama-assn.org/press-center/press-releases/ama-adopts-new-policies-during-second-day-interim-meeting

[44] Dự án Xét xử, "Thanh thiếu niên tại Tòa án, Nhà tù và Trại giam dành cho Người lớn", tháng 12 năm 2021, https://www.sentencingproject.org/publications/youth-in-adult-courts-jails-and-prisons/ (truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2022)

[45] Hội nghị toàn quốc các cơ quan lập pháp tiểu bang, “Tuổi vị thành niên có thẩm quyền và chuyển giao sang luật tòa án dành cho người lớn.” Ngày 8 tháng 4 năm 2021, https://www.ncsl.org/research/civil-and-criminal-justice/juvenile-age-of-jurisdiction-and-transfer-to-adult-court-laws.aspx (truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2022).

[46] Ủy ban Liên hợp quốc về Quyền trẻ em, Bình luận chung số 24, Quyền trẻ em trong Hệ thống tư pháp trẻ em, Tài liệu Liên hợp quốc CRC/GC24 (2019), đoạn 40. https://www.ohchr.org/en/documents/general-comments-and-recommendations/general-comment-no-24-2019-childrens-rights-child

[47] Dự án tuyên án, “Tù chung thân vị thành niên không được ân xá: Tổng quan”, ngày 24 tháng 5 năm 2021,https://www.sentencingproject.org/publications/juvenile-life-without-parole/(truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2022).

[48] Sierra Campbell, “Quyết định của Tòa án Tối cao về án tù chung thân không ân xá cho vị thành niên đi ngược lại nhiều thập kỷ luật pháp và hiểu biết về sự phát triểncủa vị thành niên”, bài đăng trên “Quỹ Bảo vệ Trẻ em” (blog), ngày 13 tháng 5 năm 2021, https://www.childrensdefense.org/blog/supreme-court-juvenile-life-without-parole/. (truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2022).

[49] Ủy ban Liên hợp quốc về xóa bỏ phân biệt chủng tộc (CERD), “Xem xét các báo cáo do các quốc gia bên đệ trình theo điều 9 của Công ước: Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc: nhận xét kết luận của Ủy ban xóa bỏ phân biệt chủng tộc: Hoa Kỳ,” CERD/C/USA/CO/6, ngày 8 tháng 5 năm 2008, https://www.refworld.org/docid/4885cfa70.html

[50] Dự án tuyên án, “Tù chung thân vị thành niên không được ân xá: Tổng quan”, ngày 24 tháng 5 năm 2021,https://www.sentencingproject.org/publications/juvenile-life-without-parole/(truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2022).