Thứ Sáu, 8 tháng 11, 2024

BPSOS lợi dụng báo cáo của Ủy hội Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế USCIRF để chống phá Nhà nước Việt Nam

 


Sau khi tổ chức Ủy hội Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế - USCIRF công bố nghiên cứu với nội dung tôn giáo do nhà nước kiểm soát và tự do tôn giáo ở Việt Nam vào ngày 27/9/2024, ngay lập tức tổ chức “Ủy ban cứu người vượt biển - BPSOS”, khoe khoang, tuyên truyền đây là “thành tích” do BPSOS đóng góp. Bởi lẽ, ngay từ cuối năm 2023, Nguyễn Đình Thắng, đối tượng cầm đầu BPSOS liên tục quảng cáo với các cá nhân, tổ chức chống phá Việt Nam trong và ngoài nước rằng, BPSOS được USCIRF giao cho nghiên cứu Đề án “Nghiên cứu vai trò của các tổ chức tôn giáo quốc doanh trong chính sách đàn áp tự do tôn giáo Việt Nam”. Từ đó đến nay, Nguyễn Đình Thắng, cầm đầu BPSOS đã yêu cầu các hội nhóm tôn giáo cực đoan, chống đối trong nước tập trung thu thập “tư liệu” để chuyển cho BPSOS làm báo cáo. Với việc sử dụng những tài liệu, thông tin méo mó, chắp vá do BPSOS cung cấp thì việc USCIRF xây dựng một “báo cáo” hoàn toàn sai sự thật, thiếu thiện chí và phản ánh thiếu khách quan về tình hình tôn giáo tại Việt Nam là điều hiển nhiên, không có gì là lạ.



Đáng chú ý, vào ngày 09/10/2024 vừa qua, tại Berlin, Đức, trong khuôn khổ Hội nghị cấp Bộ trưởng về Tự do Tôn giáo hay Niềm tin do Bàn tròn Tự do Tôn giáo Quốc tế (International Religious Freedom Roundtable) tổ chức, “Ủy ban cứu người vượt biển - BPSOS” đã tổ chức các buổi hội luận xuyên tạc về tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam, trong đó dựa vào các nội dung trong báo cáo như “Nhà nước kiểm soát và Tự do tôn giáo ở Việt Nam” của USCIRF để xem đó như là bằng chứng quy kết Đảng, Nhà nước, chế độ ta luôn “bất công”, “phân biệt đối xử”, “đàn áp” tôn giáo, tín ngưỡng của người dân. Chúng xuyên tạc Nhà nước Việt Nam thực hiện “sách lược thay thế hoặc khuynh loát các tổ chức tôn giáo và làm biến màu tôn giáo ở Việt Nam”, “cấm các tổ chức phật giáo cũ như Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, Hội thánh Cao đài 1926, Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo nguyên thủy hoạt động, bỏ tù phàn lớn lãnh đạo của các tổ chức này, phá hủy, chiếm đoạt hoặc chuyển tài sản của các cơ sở này thành cơ sở của Chính phủ”, “kiểm soát đạo Tin Lành”, “hạn chế ảnh hưởng của Tòa thánh Vatican vào trong nước”… Đây đều là những luận điệu xuyên tạc, không có cơ sở vì trên thực tế, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm và tạo điều kiện để các tôn giáo có điều kiện phát triển vượt bậc. Điều này được thể hiện trong thành tựu của Việt Nam về thúc đẩy và phát triển tôn giáo qua con số như tính đến năm 2021, Nhà nước ta đã công nhận và cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo cho 43 tổ chức, thuộc 16 tôn giáo với hơn 27 triệu tín đồ, chiếm khoảng 28% dân số cả nước; trên 55.000 chức sắc, gần 150.000 chức việc, gần 30.000 cơ sở thờ tự... Mặc dù sự phát triển này có thể vẫn chưa thể “đáp ứng” hết các nhu cầu về tôn giáo, nhất là trong bối cảnh mới, song, những con số nêu trên là minh chứng rất rõ cho chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện tinh thần cởi mở, tôn trọng dân chủ; thừa nhận tôn giáo, tín ngưỡng là nhu cầu chính đáng của một bộ phận quần chúng nhân dân; luôn quan tâm, sẵn sàng tạo điều kiện đối với các hoạt động của những tôn giáo đã được công nhận.

Trái ngược với những con số biết nói đó, thông tin mà BPSOS cung cấp để USCIRF đưa vào trong báo cáo là thông tin về các vụ như Thiền am bên bờ vũ trụ, vụ 2 tổ chức Cao Đài tại Mỹ kiện cáo nhau vì cơ sở thờ tự và khoản tiền quỹ; vụ chiếm cứ, sang nhượng từ các tín đồ chức sắc trong nội bộ Hội thánh Tin Lành… hay đưa ra những đại diện làm “nhân chứng sống về đàn áp tôn giáo, thậm chí xuyên quốc gia” như trường hợp Y Quynh Bdap, kẻ đứng kẻ đã trực tiếp tuyển mộ, kích động và chỉ đạo thực hiện vụ tấn công khủng bố  ngày 11/6/2023 tại Đắk Lắk với các hành vi bạo lực, man rợ làm 09  người chết, 02 người bị thương và thiệt hại hàng tỉ đồng của Nhà nước và nhân dân Việt Nam. BPSOS còn kêu gọi các tổ chức quốc tế, các thành viên của USCIRF ký vào thư chung đề nghị chính phủ Thái Lan không dẫn độ Y Quynh Bdap về Việt Nam để xử lý. Điều này chứng tỏ mối quan hệ và sự bảo trợ rõ ràng của BPSOS đối với đối tượng phạm tội khủng bố. Do đó, những thông tin do BPSOS cung cấp để USCIRF xây dựng báo cáo đều là những thông tin bị bóp méo, không đúng sự thật và những trường hợp mà BPSOS và USCIRF bảo trợ thì đều là những trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam và bị xử lý nghiêm minh trước pháp luật với đầy đủ quá trình điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội. Phải chăng, do không tìm hiểu kỹ các thông tin nhận được cũng như vì mục đích chính trị muốn can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam mà USCIRF đang tự biến mình thành “con tin”, làm “công cụ” để tổ chức “ăn mày chính trị” như BPSOS lợi dụng để trục lợi?

“Ủy ban cứu người vượt biển - BPSOS” là tổ chức phản động, núp bóng là tổ chức NGO hoạt động trên lĩnh vực “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”, chống phá Việt Nam quyết liệt ở cả trong và ngoài nước. Lợi dụng vỏ bọc đó, BPSOS cũng thường xuyên cấu kết với các tổ chức phản động lưu vong ở bên ngoài, móc nối các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, nhận nguồn tiền hỗ trợ khổng lồ từ các tổ chức quốc tế và chính phủ Mỹ để xây dựng các kế hoạch hoạt động với mưu đồ “chuyển hóa nền dân chủ Việt Nam” theo mô hình phương Tây. Việc BPSOS cung cấp thông tin sai lệch cho tổ chức USCIRF đưa ra báo cáo sai sự thật, gây bất lợi cho Nhà nước Việt Nam về tình hình tôn giáo, góp phần thúc đẩy Mỹ gây nhiều sức ép với Nhà nước ta về vấn đề này thể hiện bản chất phản động, chống phá cực đoan của BPSOS. Người đọc thông tin hiện nay cần phải cảnh giác và lên án BPSOS, không để tổ chức này tiếp tục hoạt động, gây hại cho xã hội, làm xấu hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế.

 

 

 

Tổ chức USCIRF hồ đồ khi cho rằng luật pháp Nhà nước ban hành là dùng để kiểm soát tôn giáo tại Việt Nam

 


Cuối tháng 9 vừa quà, tổ chức Uỷ Hội Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế USCIRF công bố tài liệu nghiên cứu về tự do tôn giáo tại Việt Nam. Bản báo cáo đưa ra các “trợ cụ đàn áp tôn giáo” trong đó nêu “các luật chủ chốt để kiểm soát tôn giáo” gồm Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và Nghị định số 162/2017/ND-CP; Luật Đất đai năm 2013, Luật Xây dựng năm 2014, Bộ luật hình sự năm 2015, và Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018. Rõ ràng nhận định, đánh giá này của USCIRF là hoàn toàn áp đặt và có thể nói là “hồ đồ” khi đưa ra dưới tư cách là một tổ chức tham vấn cho Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về tôn giáo.



Thứ nhất, là về Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2016, USCIRF cho rằng, trong Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2016, chính phủ Việt Nam đã chọn thuật ngữ "Tin ngưỡng" cho khái niệm tín ngưỡng, thuật ngữ này truyền tải ý nghĩa "niềm tin vào các yếu tố thiêng liêng và siêu nhiên" mà không sử dụng từ ngữ “tư tưởng và lương tâm” và cho rằng luật này “cho phép chính phủ đàn áp bất kỳ tín ngưỡng nào mà họ cho là gây hại cho ĐCSVN”; hay phê phán Điều 33 khi yêu cầu một tổ chức tôn giáo được công nhận phải cung cấp cho Ban Tôn giáo Chính phủ danh sách các chức sắc tôn giáo họ bổ nhiệm để Ban Tôn giáo Chính phủ phê duyệt trong vòng 20 ngày kể từ ngày bổ nhiệm”; “Chương IV và VI của Luật bắt buộc các tổ chức tôn giáo phải đăng ký các hoạt động của mình với chính quyền địa phương, tỉnh, và trung ương, và phải hàng năm thông báo và xin phép chính quyền để được thực hiện các hoạt động tôn giáo đó”; Điều 36 “trao quyền cho Ban Tôn giáo Chính phủ bãi nhiệm các chức sắc tôn giáo khỏi vị trí của họ thông qua các tổ chức tôn giáo do nhà nước kiểm soát”.

Những điều này là hoàn toàn sai sự thật, vì thứ nhất, trong văn hóa Việt Nam thể hiện rất rõ ràng 2 khái niệm “tín ngưỡng” và “tôn giáo”, tín ngưỡng được hiểu nôm na là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi, tôn thờ, ví dụ như tín ngưỡng thờ tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng thờ vua Hùng, tín ngưỡng thờ tổ nghề…., còn tôn giáo là niềm tin của con người nhưng được thể hiện với đầy đủ các thành phần:đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức, ví dụ như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin Lành, đạo Hồi… ở Việt Nam chỉ có khái niệm là tín ngưỡng và tôn giáo, và vì thế mà khái niệm này phù hợp với người Việt cũng như những đặc điểm tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam, còn tư tưởng và lương tâm trong tôn giáo suy cho cùng là thuật ngữ của phương Tây, không giống với văn hóa Việt Nam. Thứ hai, các điều luật trong Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2016 đã chỉ rõ việc các tổ chức tôn giáo có tư cách pháp nhân cần thông báo cho cơ quan quản lý vấn đề tôn giáo là Ban Tôn giáo Chính phủ hay đăng ký và thông báo về lịch trình hoạt động của tổ chức đó trong năm. Đây là điều hiển nhiên vì mỗi tổ chức có tư cách pháp nhân, không phải ở mỗi Việt Nam mà ở các quốc gia pháp quyền đều cần đăng ký và thông báo cụ thể nhân sự, các hoạt động tôn giáo trong năm của mình cho Nhà nước quản lý. Mặt khác, Điều 33 nêu rõ: Tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương về người được phong phẩm hoặc suy cử … của tổ chức tôn giáo khác chậm nhất là 20 ngày kể từ ngày phong phẩm hoặc suy cử” và “Trường hợp người được phong phẩm hoặc suy cử làm chức sắc không đáp ứng quy định tại khoản 2 Điều 32 của Luật này (tức là người phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định của pháp luật về tố tụng hình sự), cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản yêu cầu tổ chức tôn giáo hủy kết quả phong phẩm hoặc suy cử chức sắc”. Như vậy, rõ ràng báo cáo của USCIRF đã bóp méo sự thật khi cho rằng Nhà nước “trao quyền cho Ban Tôn giáo Chính phủ bãi nhiệm các chức sắc tôn giáo khỏi vị trí của họ thông qua các tổ chức tôn giáo do nhà nước kiểm soát” trong khi điều luật chỉ rõ những người không đủ năng lực hành vi dân sự hoặc không phải đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì sẽ không được bổ nhiệm các vị trí trong tổ chức tôn giáo. Điều này không chỉ ở Việt Nam mà bất kỳ quốc gia nào có luật pháp sẽ đều không cho phép những trường hợp không đủ tiêu chuẩn về hành vi hoặc đang vi phạm pháp luật được tham gia vào các tổ chức đoàn thể xã hội.

 Thứ hai là về Luật Đất đai năm 2013 và Luật Xây dựng năm 2014. Về đất đai và xây dựng của mỗi đất nước đều cần được quản lý chặt chẽ bởi lẽ nếu không có quy hoạch, không có phân công quyền sở hữu hoặc xây dựng như thế nào thì ắt hẳn sẽ không nhà nước nào có thể đảm bảo được trật tự an toàn xã hội được bởi lẽ đất đai là một loại tài sản có giá trị lớn, thả nổi, mặc sức tự do thì đất nước nào cũng sẽ loạn. Mặt khác, Việt Nam là đất nước đi theo chế độ Cộng sản, vậy “đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Như vậy việc sở hữu đất đai hay xây dựng hoặc một công trình nào, dù là công trình tôn giáo thì đều cần sự cho phép của chính quyền địa phương, không phải ai bảo đó là đất của tôn giáo và tôn giáo đó thích thì xây dựng cơ sở thờ tự của tôn giáo đó ở đâu và lúc nào, quy mô như thế nào đều được. Chúng ta đang sống trong đất nước pháp quyền, có luật pháp thì dù là người bình thường hay người trong tôn giáo đều phải tuân thủ pháp luật.

Thứ ba, về Bộ luật hình sự năm 2015, báo cáo của USCIRF cho rằng Bộ Công an sử dụng nhiều điều khoản trong Bộ luật hình sự để “nhắm vào các nhóm tôn giáo độc lập”, bao gồm Điều 113, quy định tội “khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân”; Điều 116, quy định tội “phá hoại chính sách đại đoàn kết”; Điều 117, quy định tội “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm  nhằm chống Nhà nước”; và Điều 331, quy định tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.” Và xuyên tạc “Chính phủ cố ý diễn giải rộng rãi vượt quá phạm vi của các điều khoản này, để cho phép họ truy tố những người ủng hộ tự do tôn giáo hoặc thực hành tôn giáo độc lập hoặc nhắm vào các thành viên của các cộng đồng dân tộc tôn giáo thiểu số ở Tây Nguyên, Tây Bắc và đồng bằng sông Cửu Long”. Điều này rõ ràng là xuyên tạc, Bộ Công an Việt Nam, trong lĩnh vực tôn giáo có trách nhiệm bảo vệ, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân, sự bình đẳng giữa các tôn giáo trước pháp luật; đấu tranh, ngăn chặn, xử lý vi phạm hành chính các hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật. Khi xảy ra các vụ việc vi phạm pháp luật, thì dù là người bình thường hay người theo tôn giáo đều phải xử lý trước pháp luật. Không có chuyện Bộ Công an nhắm vào “tổ chức tôn giáo độc lập” như các đối tượng xuyên tạc. Ví dụ như vụ án liên quan Nguyễn Bắc Truyển tự nhận là “tín đồ Phật giáo Hòa Hảo và nhà hoạt động nhân quyền”. Tuy nhiên, năm 2013, Nguyễn Bắc Truyển cùng các đối tượng gồm Phạm Văn Trội, Nguyễn Trung Tôn và Nguyễn Văn Đài đều là các thành viên sáng lập ra tổ chức “Hội Anh em dân chủ” có kế hoạch đào tạo hội viên, phát triển lực lượng, thực hiện nhiều hình thức tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; có quan hệ với các tổ chức, cá nhân nước ngoài để vận động ủng hộ tài trợ kinh phí cho hội hoạt động, lập dự án xin tài trợ cho hoạt động của hội; lợi dụng các sự kiện chính trị, sự kiện nhạy cảm trong nước để kích động người dân phản đối chính quyền. Tại phiên tòa phúc thẩm, Tòa đã tuyên y bản án 11 năm tù, 3 năm quản chế về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Việc áp dụng Bộ luật Hình sự xử lý các đối tượng trong tôn giáo sẽ không khác với việc áp dụng bộ Luật hình sự khi xử lý các đối tượng là người không theo tôn giáo. Vì vậy USCIRF thật vô cớ khi cho rằng bộ Luật Hình sự Việt Nam “nhằm vào tổ chức tôn giáo độc lập” hay những cá nhân hoạt động vì tự do tôn giáo. Những đối tượng mà Bộ Luật Hình sự áp dụng là những kẻ phạm tội theo Bộ Luật hình sự và bị xử án một cách đúng người, đúng tội.

Thứ tư, về Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018, USCIRF đưa ra một “bằng chứng” là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vào thời điểm đó đã công bố Quyết định 1722/QĐ-TTg, khẳng định rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã cài cắm đặc vụ vào các tổ chức tôn giáo. Quyết định này xác định rằng các thông tin liên quan đến những đảng viên “được lựa chọn, sắp xếp và tuyển dụng” bởi chính quyền trong các tổ chức tôn giáo là thông tin mật”. Đây rõ ràng là thông tin không được kiểm chứng nên không được tính là bằng chứng. Mặt khác, việc Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 phân loại bí mật nhà nước thành ba cấp độ và cho phép bảo mật trong thời gian nhất định gồm tối mật (30 năm), mật (20 năm) và tuyệt mật (10 năm) là điều mà mỗi quốc gia đều cần thực hiện để đảm bảo an ninh quốc gia của mình. Việc Việt Nam chưa giải mật những thông tin liên quan bí mật Nhà nước là quyền của mình. Những tổ chức như USCIRF không hài lòng với điều luật này là mong muốn can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam chăng? Nếu vậy, USCIRF đang vi phạm luật pháp quốc tế rồi đó.

Cuối cùng, Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền, về lĩnh vực tôn giáo, Việt Nam sử dụng pháp luật để đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, đồng thời cũng đảm về các quyền lợi và trách nhiệm của các cơ sở tôn giáo, bảo vệ tài sản của họ. Việc USCIRF đưa ra những dẫn chứng không được kiểm chứng và không có cơ sở pháp lý để chứng minh thể hiện sự thiếu đáng tin về những điều mà bản báo cáo “Các tổ chức tôn giáo bị Nhà nước kiểm soát và tự do tôn giáo Việt Nam” do USCIRF công bố vào cuối tháng 9 vừa qua. Báo cáo này nên bị hủy bỏ vì sự không khách quan và hồ đồ của USCIRF khi tin theo các tài liệu do các tổ chức phản động người Việt lưu vong ở nước ngoài (chủ yếu là BPSOS) cung cấp vì các tài liệu này chỉ là những thông tin bị bóp méo và thiếu trung thực.

 

Thứ Năm, 7 tháng 11, 2024

Nghiên cứu của Ủy hội Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế - USCIRF đánh giá sai sự thật về Phật Giáo Hoà Hảo tại Việt Nam

 


Trong nghiên cứu của Uỷ Hội Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế (US Commission on International Religious Freedom, USCIRF) công bố ngày 27/9/2024 vừa qua đã đưa ra những đánh giá về Phật Giáo Hoà Hảo tại Việt Nam. Bản báo cáo nêu lên “sự can thiệp của chính phủ Việt Nam vào cộng đồng Phật giáo Hòa Hảo thông qua Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo (GHPGHH) do chính phủ thành lập, vốn mang cùng tên với Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo gốc”; "Kể từ khi chính phủ thành lập Ban Đại diện Phật giáo Hòa Hảo do chính phủ kiểm soát vào năm 1999, và sau đó mở rộng thành GHPGHH vào năm 2005, chính phủ đã theo đuổi sách lược thay thế để kiểm soát tôn giáo Hòa Hảo”, “Sách lược này bao gồm việc kiểm soát lãnh đạo của GHPGHH, can thiệp vào việc diễn giải và xuất bản kinh sách Hòa Hảo, nhắm vào và đàn áp GHPGHH độc lập cùng các thành viên của họ, và chuyển giao quyền kiểm soát tài sản của đạo cho GHPGHH được chính phủ công nhận”. Những nhận định này là vô căn cứ, sai sự thật về tình hình hoạt động của Phật giáo Hòa Hảo tại Việt Nam cũng như đánh giá sai lệch, xuyên tạc về Ban Trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo Việt Nam.



Phật giáo Hoà Hảo ra đời ở Nam bộ năm 1939. Người sáng lập đạo là ông Huỳnh Phú Sổ, quê làng Hoà Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, nay là thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang. Đạo Phật giáo Hoà Hảo được khai sáng trên nền tảng đạo Bửu Sơn Kỳ Hương của ông Đoàn Minh Huyên và lấy pháp tu Tịnh độ tông làm căn bản tu hành. Đạo Phật giáo Hoà Hảo với giáo pháp là học Phật, tu Nhân, tại gia cư sĩ, thực hiện Tứ ân: Ân tổ tiên cha mẹ, Ân đất nước, Ân Tam bảo, Ân đồng bào nhân loại. Phật giáo Hòa Hảo một tôn giáo cách tân, có xu hướng nhập thế, đạo rất coi trọng hoạt động từ thiện xã hội. Vì vậy, trong Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Hoà Hảo đã xác định đường hướng hành đạo là "vì Đạo pháp, vì Dân tộc". Tôn chỉ hành đạo là học Phật, tu Nhân, tại gia cư sĩ, giáo huấn tín đồ về Tứ ân; thực hiện 8 điều răn cấm, cứu giúp người nguy khó, tương trợ trong quan, hôn, tang, tế và hoạt động từ thiện hữu ích cho xã hội. Do đó, có thể thấy Phật giáo Hòa Hảo là một tôn giáo nội địa với tôn chỉ vì dân tộc, mang đậm tình cảm, văn hóa của người Việt Nam. Phật giáo Hòa Hảo có số lượng tín đồ tương đối lớn và là một trong những tôn giáo ở Việt Nam đã có tổ chức hoạt động hợp pháp. Chủ trương chính sách và pháp luật Nhà nước về Phật giáo Hòa Hảo, nhất là khi luật Tín ngưỡng, tôn giáo được ban hành ngày càng được cụ thể hóa. Các cơ quan chức năng Nhà nước Trung ương, Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban MTTQ Việt Nam và các cơ quan thẩm quyền các cấp ở địa phương đã luôn quan tâm hướng dẫn, giúp đỡ tạo điều kiện cho Ban Trị sự Trung ương và cả hệ thống Giáo hội trong suốt quá trình hoạt động. Đường hướng hành đạo “vì Đạo pháp – vì Dân tộc” là sự cụ thể hoá giáo pháp “Học Phật – Tu Nhân”, tại gia cư sĩ đã đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng, tình cảm và nguyện vọng của toàn thể tín đồ. Đời sống mọi mặt của tín đồ đã từng bước được nâng cao, nhu cầu tín ngưỡng và hoạt động tôn giáo chính đáng được đáp ứng nên hầu hết tín đồ yên tâm, tin tưởng vào đường hướng hành đạo của Giáo hội, tinh tấn tu hành và chuyên cần làm ăn, đoàn kết, ủng hộ các chương trình đạo sự do Ban Trị sự Trung ương đề ra. Những thông tin này đã phủ nhận hoàn toàn thông tin do USCIRF vu cáo “Sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc vào tháng 4 năm 1975, chính phủ Việt Nam đã nhắm vào Phật giáo Hòa Hảo và ngay lập tức chiếm đóng làng Hòa Hảo. Năm 1979, chính phủ đã lập ra một chiến dịch nhằm tiêu diệt tôn giáo này trong vòng 10 đến 15 năm. Chính phủ đã hạn chế các hoạt động thờ cúng bằng cách phá hủy kinh sách, bàn thờ và hình ảnh của Đức Thầy, cấm tổ chức các ngày lễ lớn của tôn giáo và không cho phép sử dụng thuật ngữ "Thánh địa Hoà Hảo," cũng như xuất bản tài liệu nhằm bôi nhọ các lãnh đạo và giáo lý của Hòa Hảo”.

Các những minh chứng cho việc Việt Nam “đàn áp Phật Giáo Hòa Hảo độc lập” được USCIRF nêu lên chủ yếu dựa vào một số  hiện tượng, nhóm trái pháp luật mang danh nghĩa tôn giáo, chưa được công nhận, có hiện tượng hoạt động vi phạm pháp luật để quy kết Việt Nam “đàn áp tôn giáo”. Ví dụ nhóm Hội đồng Liên tôn (gồm một số giáo sĩ cực đoan thuộc 5 tôn giáo tham gia: Công giáo, Tin lành, Phật giáo, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo); nhóm Phật giáo Hòa Hảo thuần túy và Phật giáo Hòa Hảo truyền thống hay đối tượng Nguyễn Bắc Truyển (nhóm Phật giáo Hòa Hảo truyền thống) đều là những phần tử lợi dụng tôn giáo chống Nhà nước Việt Nam nên bị phạt tù theo quy định của Bộ luật Hình sự, chứ không phải các “tù nhân lương tâm”, như USCIRF gán cho. Mặt khác, Nhà nước Việt Nam luôn hỗ trợ, tạo điều kiện cho các tín đồ Phật giáo Hòa Hảo thực hiện sinh hoạt tôn giáo thường xuyên trong gia đình và nơi thờ tự theo nghi lễ truyền thống, tổ chức lễ công nhận pháp nhân, kỷ niệm khai đạo của Phật giáo Hòa Hảo… khẳng định sự quan tâm, ghi nhận đối với những đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, thống nhất đất nước cũng như nhiều thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng vững mạnh.

USCIRF còn xuyên tạc “Năm 1975, chính phủ đã tịch thu tài sản của Phật giáo Hoà Hảo, bao gồm hơn 800 độc giảng đường và khoảng 50 ngôi chùa”, “Một số cơ sở Phật giáo Hoà Hảo đã được sử dụng làm văn phòng của chính phủ”, “Không có chùa, không có trụ sở và quyền tiếp cận Thánh địa của mình, tín đồ Phật giáo Hoà Hảo độc lập không thể thực hiện đầy đủ đức tin của họ”, “Họ bị giới hạn trong việc thực hành tôn giáo tại nhà riêng trừ khi họ tham gia Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo được chính quyền công nhận”. Trên thực tiễn, công tác xây dựng cơ sở thờ tự được các tôn giáo quan tâm, đẩy mạnh, chính quyền địa phương cũng rất quan tâm giải quyết, cấp đất cho các Phật giáo Hòa Hảo xây dựng cơ sở tôn giáo. Nổi lên là tại tỉnh An Giang có Văn phòng Ban Trị sự Trung ương Giáo hội PGHH, 1 trường Trung cấp, 14 cơ sở thờ tự, 136 Ban Trị sự cơ sở (xã, phường, thị trấn với khoảng 960 chức việc). Đại đa số chức việc và tín đồ Phật giáo Hòa Hảo có tinh thần yêu nước, trách nhiệm công dân cao, thường xuyên gắn hoạt động tôn giáo với các phong trào cách mạng ở địa phương, xây dựng các công trình phúc lợi xã hội với phương châm “Nhà nước và Nhân dân cùng làm” góp phần xây dựng và phát triển đất nước, được xã hội đồng tình ủng hộ và đánh giá cao, có sức lan toả mạnh mẽ. Điều đó có thể chứng minh Nhà nước Việt Nam hỗ trợ các tôn giáo, trong đó có Phật giáo Hòa Hảo xây dựng, tu sửa và phát triển cơ sở thờ tự, đảm bảo nhu cầu thực hành tín ngưỡng của họ.

Từ những vấn đề được chỉ ra có thể thấy, những báo cáo và thông tin do USCIRF là sai thực tế, xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam, thể hiện âm mưu, ý đồ kích động những đối tượng chống đối trong Phật Giáo Hòa Hảo chống phá, gây chia rẽ khối đại đoàn kết tôn giáo. Việc nhận diện, lật tẩy những luận điệu chống phá này là cần thiết để đảm bảo tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và bảo vệ uy tín cũng như thành tựu của Nhà nước Việt Nam về bảo đảm quyền tự do tin ngưỡng, tôn giáo.

 

 

 

 

 

Phản bác cáo buộc của Ủy hội Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế - USCIRF về Hội Thánh Tin Lành Việt Nam

 


Ngày 27/9 vừa qua, Uỷ Hội Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế (US Commission on International Religious Freedom, USCIRF) công bố tài liệu nghiên cứu về “các tổ chức tôn giáo mà nhà nước Việt Nam dùng làm trợ cụ để khống chế và đàn áp quyền tự do tôn giáo hay niềm tin”. Trong đó, bản nghiên cứu đã đưa ra những thông tin sai sự thật về các tổ chức tôn giáo tại Việt Nam, trong đó có Hội thánh Tin Lành Việt (miền Nam - miền Bắc), cụ thể:



Bản nghiên cứu cho rằng “Trong thời kỳ thuộc địa Pháp, chính quyền đã hạn chế các hoạt động truyền giáo Tin Lành từ nước ngoài”, “CSVN từ lâu đã mô tả sự lan rộng của đạo Tin Lành như một chiến lược của chính phủ Hoa Kỳ nhằm lật đổ chế độ cộng sản”… Những thông tin này là nhận định chưa chính xác về lịch sử phát triển đạo Tin Lành và chính sách của Việt Nam đối với Tin Lành. Thứ nhất, từ những năm đầu của thế kỷ 20, một Hội truyền giáo Tin lành xuất xứ từ Mỹ đến truyền giáo tại Việt Nam là một điều không có gì đặc biệt. Khi đó, Ðông Dương là thuộc địa của Pháp, là xứ sở truyền giáo đầy khó khăn. Khó khăn là vì chính quyền Pháp ngăn trở, xã hội văn hóa cổ truyền Á châu xa lạ với Kitô giáo, nhất là với Tin Lành. Các giáo sĩ đã kiên trì, dùng các phương pháp truyền giáo hiện đại, mới lạ, cùng nguồn tài lực to lớn để hoạt động. Việc truyền giáo nhiều lần bị ngưng trệ, gián đoạn do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế, chiến tranh ... Ðến cuối thời Pháp thuộc, các giáo sĩ Tin lành mới gây dựng được một cộng đồng tín đồ khoảng 13.000 người. Thời kỳ 1955 - 1975, một chiến lược truyền giáo quy mô với sự hậu thuẫn của Tin lành thế giới, giới chức dân sự, quân sự Mỹ và chính quyền Sài Gòn được triển khai. Tuy nhiên, dù được hỗ trợ tối đa nhưng kết quả truyền giáo của Hội Truyền giáo C.M.A (The Christian and Missionnary Alliance), Hội thánh Tin lành Việt Nam (HTTLVN) rất hạn chế. Hằng năm chỉ tăng lên từ 1.000 đến 1.500 tín đồ, chưa trừ đi số tăng tự nhiên. Tại vùng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, các tỉnh duyên hải miền trung, tình hình cũng tương tự. Với khoảng hơn 160.000 tín đồ vào thời điểm 1975, Tin lành vẫn là cộng đồng tôn giáo thiểu số. Nhìn chung, do lịch sử truyền giáo, cho nên thành phần Tin lành tại Việt Nam tương đối đồng nhất, tập trung chủ yếu vào HTTLVN. Sau năm 1975, bối cảnh chính trị, xã hội mới và có sự biến động lớn trong thành phần chức sắc, tín đồ, nên có một thời gian Tin lành hầu như không phát triển.

Nhưng bắt đầu từ cuối thế kỷ 20, sự phục hồi và gia tăng hoạt động truyền giáo của Tin lành đã kéo theo sự gia tăng đột biến số lượng tín đồ ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Nguyên nhân của hiện tượng này là cuộc khủng hoảng, suy thoái của hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo cổ truyền của đồng bào dân tộc thiểu số ở miền cao và vai trò to lớn của Hội thánh tin lành Việt Nam (miền Nam và miền Bắc). Bởi lẽ, từ năm 1976 đến trước năm 2001, Hội thánh tin lành Việt Nam chưa được Nhà nước chính thức công nhận tư cách pháp nhân một tổ chức giáo hội, cho nên việc điều hành, duy trì, bảo tồn các cơ sở vật chất gặp khó khăn, từng xảy ra các vụ chiếm cứ, sang nhượng từ các tín đồ chức sắc trong nội bộ. Sau hơn 30 năm, các cơ sở vật chất đó hầu như không còn giá trị sử dụng (trừ một vài cơ sở lớn), và đòi hỏi của giáo hội Tin lành thực chất là vấn đề "quyền sử dụng đất" liên quan tới các cơ sở đó. Tuy nhiên, rất nhiều vấn đề phức tạp khác (như: sở hữu, đền bù, di dời) khiến các cấp chính quyền gặp nhiều khó khăn, không thể giải quyết nhanh chóng. Hiện nay, sau khi giáo hội đã có tư cách pháp nhân, nhu cầu chính đáng về cơ sở thờ tự, đất đai... đã và đang được Nhà nước quan tâm xem xét, giải quyết.  Điển hình như thành phố Hồ Chí Minh đã giao 7.500 m2 cho Tổng liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam), xây dựng Viện Thánh kinh thần học; tỉnh Đắk Lắk đã giao hơn 11.000 m2 đất cho Tòa Giám mục Buôn Ma Thuột; tỉnh Quảng Trị giao thêm 15 ha đất cho giáo xứ La Vang...

Bên cạnh đó, đối với đạo Tin Lành, từ năm 2021-2023 ở các tỉnh phía Bắc đã chấp thuận thêm 170 điểm nhóm, 6 tổ chức tôn giáo trực thuộc; 5 tỉnh Tây Nguyên chấp thuận 11 tổ chức tôn giáo trực thuộc từ các điểm nhóm đã được đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập trung trước đó. Đến nay, ở Việt Nam có hơn 1,2 triệu người theo đạo Tin Lành, trong đó có khoảng 873.700 tín đồ là người dân tộc thiểu số.

Bản nghiên cứu của USCIRF còn cho rằng, Nhà nước “bổ nhiệm các chức sắc tôn giáo và sử dụng HTTLVN để thực hiện các chính sách như buộc người H'Mông, người Tây Nguyên theo đạo Tin Lành từ bỏ đức tin của họ, nhắm mục tiêu vào các nhà truyền giáo và hạn chế người dân tộc thiểu số (H’mông) tiếp cận Kinh Thánh bằng ngôn ngữ của họ”; “Chính quyền từ chối cấp giấy nhận dạng có hiệu lực toàn quốc cho họ, khiến họ thực tế không có quốc tịch; không có thẻ căn cước quốc gia và sổ hộ khẩu, họ không thể làm việc hợp pháp, đi học hoặc nhận các dịch vụ xã hội tại Việt Nam”. Điều này là hoàn toàn bịa đặt bởi lẽ trong bối cảnh hội nhập quốc tế, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm về tín ngưỡng - tôn giáo, ban hành các văn bản pháp luật nhằm đảm bảo tốt nhất cho sự ổn định và phát triển của đạo Tin Lành tại Việt Nam. Theo đó Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh về tín ngưỡng và tôn giáo năm 2004, Chỉ thị 01/2005/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về công tác đối với đạo Tin lành, Nghị định 92/2012/NÐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh về tín ngưỡng và tôn giáo,... để thực thi, giải quyết nhiều vấn đề liên quan tới tư cách pháp lý và mọi mặt hoạt động tôn giáo nói chung, các tổ chức giáo hội, giáo phái Tin lành nói riêng. Ðến nay, đã có 10 tổ chức giáo hội, giáo phái (hệ phái) Tin lành được Nhà nước cấp công nhận là tổ chức tôn giáo. Tại các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nhu cầu sinh hoạt tôn giáo hợp pháp của chức sắc, tín đồ Tin lành đã và đang được tạo điều kiện thực hiện bình thường trong khuôn khổ pháp luật. Các hệ phái, nhóm Tin lành nhỏ tuy chưa được công nhận tư cách pháp nhân cũng được tạo điều kiện đăng ký sinh hoạt, thực hành tôn giáo phù hợp với nhu cầu của giáo dân. Nhìn nhận một cách khách quan, từ khi các chủ trương, chính sách mới được triển khai, cộng đồng Tin lành ở Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, đáng ghi nhận như: tính tuân thủ pháp luật, năng động và tích cực trong vai trò là một nhân tố góp phần phát triển lối sống, văn hóa, đạo đức tiến bộ trong đời sống xã hội và phát triển kinh tế, phát triển cộng đồng. Nhiều nơi, nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, đời sống của đồng bào theo Tin lành đã có một số thay đổi tích cực, theo hướng văn minh, tiến bộ..., hoàn toàn không có chuyện người đồng bào bị yêu cầu “từ bỏ đức tin” hay “không được tiếp cận kinh thánh theo ngôn ngữ của họ”. Bên cạnh đó, Bộ Công an đã triển khai cấp thẻ căn cước cho người dân trên toàn quốc, tất cả người Việt thậm chí người chưa xác định được quốc tịch, người có giấy tờ tùy thân vẫn có thể được cấp căn cước công dân theo quy định. Tại Việt Nam không có chuyện người Việt “vô quốc tịch” hoặc “không được cấp thẻ căn cước”, “không được cấp hộ khẩu” chỉ vì theo đạo tin Lành như USCIRF nhận định, xuyên tạc.

 Cùng với các kết quả kể trên, vẫn còn có một số vấn đề phức tạp, tiêu cực liên quan đến hoạt động của các tổ chức giáo hội, giáo phái Tin lành, như nhận tài trợ từ bên ngoài để hoạt động truyền giáo không theo quy định của pháp luật, đả phá bài xích Phật giáo Tiểu thừa, Hồi giáo làm tăng nguy cơ mâu thuẫn dân tộc - tôn giáo và khối đại đoàn kết dân tộc. Một vài cá nhân, nhóm Tin lành đã có hoạt động liên quan đến tổ chức chính trị cốt để gây tiếng vang và thu hút tài trợ từ bên ngoài. Ðây là điều đáng tiếc và các cơ quan chính quyền cần phải có sự can thiệp, hòa giải. Tuy nhiên, nếu coi đó là biểu hiện của việc Tin lành là nạn nhân của việc chính quyền cố ý dùng chính sách phân biệt đối xử và kỳ thị, bỏ mặc hoặc đàn áp đạo Tin lành thì là sự vu cáo, kích động. Do đó, để làm rõ hơn nội tình đa dạng phức tạp của nhiều nhóm, hệ phái Tin lành, USCIRF cần tìm hiểu, đánh giá, phân tích một cách khách quan, thiện chí về tình hình thực tiễn xảy ra tại đất nước và con người Việt Nam, không thể chỉ nghe thông tin từ những đối tượng tôn giáo cực đoan, các tổ chức phản động lưu vong bên ngoài để đưa ra những nhận định sai lệch về tình hình tôn giáo tại Việt Nam, trong trường hợp này là đạo Tin Lành.

 

Phản bác cáo buộc của Ủy hội Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế - USCIRF về Giáo hội phật giáo Việt Nam

 


Ngày 27/9 vừa qua, Uỷ Hội Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế (US Commission on International Religious Freedom, USCIRF) công bố tài liệu nghiên cứu về “các tổ chức tôn giáo mà nhà nước Việt Nam dùng làm trợ cụ để khống chế và đàn áp quyền tự do tôn giáo hay niềm tin”. Một phần trong bản báo cáo đã nêu ra các thông tin về tình hình Phật giáo tại Việt Nam như: “Nhà nước kiểm soát Giáo hội phật giáo Việt Namthông qua các lãnh đạo tôn giáo do nhà nước bổ nhiệm; đối đãi khác biệt với các thành viên của Giáo hội phật giáo Việt Nam; nhắm mục tiêu vào các tổ chức và các nhà lãnh đạo phật giáo độc lập; can thiệp vào việc thực hành và hoạt động tôn giáo; tịch thu tài sản của các cơ sở, tổ chức phật giáo ngoài Giáo hội phật giáo Việt Nam … Những luận điệu trên là hoàn toàn sai lệch, mang tính chất xuyên tạc, không đúng với thực tiễn tình hình Phật giáo tại Việt Nam hiện nay.



Do lịch sử và văn hóa nên Phật giáo Việt Nam là một bộ phận chiếm phần quan trọng và phổ biến trong hệ thống tôn giáo Việt Nam, luôn gắn liền với những thăng trầm cùng dân tộc trải  qua nhiều thời đại và trong mọi hoàn cảnh. Cách đây hơn 40 năm, một sự kiện có ý nghĩa lịch sử trọng đại đối với Tăng, Ni, cư sĩ, Phật tử Việt Nam đã diễn ra. Lần đầu tiên trong lịch sử hơn 2000 năm Phật giáo du nhập vào Việt Nam, các tổ chức giáo hội, hệ phái Phật giáo trong cả nước Bắc tông, Nam tông, Khất sĩ và Phật giáo Khmer, từ mọi miền đất nước đã chung sức, đồng lòng, với một quyết tâm sắt đá, thống nhất thành lập ngôi nhà chung Giáo hội Phật giáo Việt Nam - GHPGVN. Tại lời nói đầu của Hiến chương, GHPGVN đã khẳng định: Sự thống nhất PGVN đặt trên nguyên tắc: “Thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức, tuy nhiên, các truyền thống hệ phái và phương tiện tu hành đúng chính pháp vẫn được duy trì”, và xác định phương châm hoạt động của GHPGVN là: “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa xã hội”, “GHPGVN là tổ chức Giáo hội duy nhất đại diện cho Tăng Ni, Phật tử Việt Nam trong và ngoài nước”. Hiến chương GHPGVN đã khẳng định: “Mục đích của GHPGVN là điều hoà, hợp nhất các tổ chức, hệ phái PGVN cả nước để hộ trì hoằng dương Phật pháp và tham gia xây dựng bảo vệ Tổ quốc, phục vụ dân tộc, góp phần xây dựng hoà bình, an lạc cho thế giới”. Nếu như trước đây, GHPGVN đồng hành cùng đất nước bảo vệ Tổ quốc, khi Tổ quốc lâm nguy, Phật giáo sẵn sàng đứng lên tham gia chống giặc ngoại xâm, góp phần giành lại độc lập cho dân tộc thì đến nay, trong thời kỳ phát triển và hội nhập quốc tế, GHPGVN lại tiếp tục GHPGVN đồng hành cùng đất nước thông qua các hoạt động giáo dục đào tạo và nghiên cứu dịch thuật,  hoạt động phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, hoạt động từ thiện, nhân đạo, xóa đói giảm nghèo chung tay bảo vệ môi trường, phòng chống dịch bện và tham gia vào con đường quan hệ quốc tế và đối ngoại nhân dân. Những hoạt động đó của GHPGNV đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đồng hành cùng nhân dân cả nước xây dựng và phát triển đất nước. Theo đó, GHPGVN đã thành lập được 63 Ban Trị sự trên 63 tỉnh thành phố và 13 ban ngành hoạt động chuyên môn. Tính đến năm 2023, cả nước có trên 19.000 cơ sở, gồm 15.871 Tự viện Bắc Tông; 473 chùa Nam Tông Khmer; 112 chùa Nam tông Kinh; 546 Tịnh xá, 467 Tịnh Thất, 998 Niệm Phật đường, 54 Tự viện Phật giáo Người Hoa; 315 điểm sinh hoạt tôn giáo tập trung Tăng Ni hiện có 40.675 Bắc tông; 7.264 Nam tông Khmer, 1.754 Nam tông kinh (1.245 chư Tăng, 716 Tu nữ); 5.318 Khất sĩ. Tổng cộng 55.011 Tăng Ni. Tín đồ Phật tử khoảng 60% trên 93 triệu dân số.

Với tư cách là thành viên trong khối Đại đoàn kết toàn dân, GHPGVN, Tăng, Ni, phật tử Việt Nam luôn luôn gắn liền với dân tộc trong mọi hoạt động xã hội, thực hiện đúng phương châm “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa Xã hội”. Các Ban Trị sự tỉnh/thành hội Phật giáo trong toàn quốc thường xuyên động viên tăng, ni, phật tử tại địa phương hoàn thành tốt các phong trào ích nước lợi dân, bảo vệ tổ quốc, bảo vệ môi trường, xây dựng nếp sống văn hóa văn minh trên địa bàn khu dân cư, tham gia các đoàn thể, các hoạt động xã hội, vì lợi ích của đất nước và dân tộc như tham gia ứng cử Đại biểu Quốc hội, Hội đồng Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc các cấp từ trung ương đến địa phương. Nhiều vị chức sắc tu hành được người dân tin tưởng bầu là Đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; vai trò đặc biệt của sư sãi trong việc vận động quần chúng xây dựng đời sống văn hóa, kinh tế xã hội ở các địa bàn dân cư. Các vị tăng, ni tiếp tục đẩy mạnh việc truyền bá đạo pháp tại vùng sâu, vùng xa, biên cương, hải đảo để tinh thần Phật giáo tiếp tục được lan tỏa nơi phên dậu của Tổ quốc. Những thông tin trên đã minh chứng được rằng, GHPGVN là một tổ chức tôn giáo đóng góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển và khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế cũng như minh chứng được rằng lãnh đạo của GHPGVN không những lãnh đạo, tổ chức hoạt động của hội theo đúng tinh thần “hộ quốc an dân, đồng hành cùng dân tộc” mà còn tham gia vào các tổ chức chính trị của Chính quyền, tham gia vào việc ban hành chính sách, pháp luật về tôn giáo để phụng sự chư tăng, phật tử. Do đó, cáo buộc của USCIRF rằng “Nhà nước kiểm soát Giáo hội phật giáo Việt Namthông qua các lãnh đạo tôn giáo do nhà nước bổ nhiệm; đối đãi khác biệt với các thành viên của Giáo hội phật giáo Việt Nam” là hoàn toàn vô căn cứ.

Mặt khác, trong báo cáo của mình, USCIRF đánh giá cho rằng Nhà nước Việt Nam “nhắm mục tiêu vào các tổ chức và các nhà lãnh đạo phật giáo độc lập; can thiệp vào việc thực hành và hoạt động tôn giáo; tịch thu tài sản của các cơ sở, tổ chức phật giáo ngoài Giáo hội phật giáo Việt Nam”. Thực tế, những thông tin này được USCIRF đưa ra đều được cung cấp bởi các tổ chức người Việt lưu vong ở bên ngoài hoặc các thành phần có nhiều bất mãn, chống đối với chính quyền. Tiêu biểu như vụ "Thiền am bên bờ vũ trụ”. Cụ thể, theo kết luận điều tra của Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Long An, vào năm 2014, bà Cao Thị Cúc mua nhà và chuyển hộ khẩu đến số 191A, ấp Lập Thành, xã Hòa Khánh Tây, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, rồi xây dựng, sửa chữa nhà cũ này và tự xưng là "làm điểm tu" và có hành vi tu trái phép. Đến năm 2015, ông Lê Tùng Vân bán căn nhà của ông này nằm trên đường Lý Chiêu Hoàng, quận 6, TPHCM, rồi ông Vân cùng với Hoàn Nguyên, Nhất Nguyên, Tùng Dương và một số người khác đến cùng sinh sống với hộ bà Cúc tại Long An. Trong thời gian sinh sống, ông Vân tự đặt tên căn nhà của bà Cúc là "Tịnh thất Bồng Lai" và sau đổi tên thành "Thiền am bên bờ vũ trụ”. Với rất nhiều video, clip mà theo chỉ đạo của ông Vân, nhóm đối tượng đã đăng nhiều video, clip trên mạng Internet cũng như tham dự một số chương trình của đài truyền hình, khiến không ít người trong và ngoài nước bị trục lợi từ thiện và có nhiều hành vi "Lừa đảo - xúc phạm Phật giáo và trục lợi phi pháp". Theo Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Long An, nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội xảy ra tại "Tịnh thất Bồng Lai - Thiền am bên bờ vũ trụ”, đều do bị can Lê Tùng Vân chỉ đạo điều hành. Lê Tùng Vân và các bị can khác đã lợi dụng hình ảnh của Phật giáo lôi kéo nhiều đối tượng cuồng tín đến ở và sinh hoạt tôn giáo trái phép, nhưng thực chất các hoạt động này là mạo danh, xuyên tạc và xúc phạm Phật giáo. Hoạt động của các bị can tại đây đã tạo nên nhiều bức xúc trong giới Tăng ni, Phật tử, tín đồ Phật giáo và gây mâu thuẫn giữa các gia đình của các đối tượng cuồng tín với số đối tượng tại hộ bà Cao Thị Cúc, tạo hình ảnh phức tạp gây mất an ninh trật tự tại địa phương buộc các cơ quan chức năng phải vào cuộc giải quyết, xử lý đúng người, đúng tội, đúng với quy định của Pháp luật.

Một vụ việc khác là việc chùa Thiền Tôn Phật Quang (sau đổi thành chùa Phật Quang) do ông Thích Chân Quang (tên thật là Vương Tấn Việt) là trụ trì, đã bị cơ quan chức năng chỉ ra hàng loạt vi phạm về xây dựng và đất đai. Theo kết luận thanh tra do UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ban hành, toàn bộ diện tích đang sử dụng và làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận của chùa Phật Quang đều là đất do nhà nước quản lý liên tục từ năm 1978. Trong khuôn viên chùa, có đến 36 công trình xây dựng, nhưng có đến 35 công trình không được cơ quan có thẩm quyền cấp phép theo quy định. Trong quá trình thực hiện, các cơ quan chức năng đã lập 33 biên bản vi phạm, ban hành 11 quyết định xử phạt và các quyết định yêu cầu khắc phục, tháo dỡ... nhưng chùa không thực hiện. Việc xây dựng hàng loạt công trình không phép trên diện tích hơn 25.000m2 cho thấy có một phần diện tích rừng phòng hộ đã bị phá dỡ, sử dụng sai mục đích. Có thể thấy, các vụ việc nêu trên đều là những vụ vi phạm pháp luật Việt Nam, các đối tượng vi phạm đều có liên quan đến tôn giáo và hoạt động tôn giáo. Do đó, những công tác trên của cơ quan chức năng bị các đối tượng xuyên tạc là xử lý các “tổ chức tôn giáo độc lập”, “hạn chế, kiểm soát việc thực hành tín ngưỡng Phật giáo”… Tất cả những luận điệu trên của chúng đều hướng tới mục đích là làm chia rẽ khối đại đoàn kết giữa Đảng, Nhà nước và cộng đồng tín ngưỡng tôn giáo tại Việt Nam.

Có thể khẳng định, đằng sau những luận điệu xuyên tạc báo cáo “các tổ chức tôn giáo mà nhà nước Việt Nam dùng làm trợ cụ để khống chế và đàn áp quyền tự do tôn giáo hay niềm tin”, trong đó có mục liên quan đến tình hình Phật giáo tại Việt Nam của USCIRF là không đúng với thực tiễn. Mặc dù các vụ việc do USCIRF nêu lên đã được cơ quan chức năng Việt Nam điều tra, truy tố, xét xử theo đúng quy định của pháp luật những vẫn bị cố tình hiểu sai hoặc chỉ chấp nhận những thông tin, tài liệu do các đối tượng, tổ chức lưu vong như “Việt Tân”, “Ủy ban cứu người vượt biển - BPSOS” (các tổ chức đã được Việt Nam chứng minh là hoạt động khủng bố hoặc tài trợ khủng bố chống Việt Nam) cung cấp và xuyên tạc. Mục đích của báo cáo này phải chăng là để làm nhiễu loạn tình hình, gây phân tâm dư luận, kích động sự mâu thuẫn trong xã hội hòng tạo ra sự mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đồng thời cố tình bẻ lái, dựng chuyện nhằm bôi nhọ hình ảnh, làm giảm uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế và tìm kiếm những tác động từ bên ngoài hòng can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Những hoạt động này phải được loại bỏ và phản bác, lên án.

 

 

Ủy hội Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế - USCIRF đưa ra thông tin sai lệch về đạo Cao Đài tại Việt Nam

 


Ngày 27/9 vừa qua, Uỷ Hội Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế (US Commission on International Religious Freedom, USCIRF) công bố tài liệu nghiên cứu về “các tổ chức tôn giáo mà nhà nước Việt Nam dùng làm trợ cụ để khống chế và đàn áp quyền tự do tôn giáo hay niềm tin”. Một phần trong bản báo cáo đã nêu ra các nhận định như: “Nhà nước Việt Nam sử dụng Chi Phái 1997 làm trợ cụ đàn áp tôn giáo cho nhà nước Việt Nam”, “kiểm soát và bổ nhiệm lãnh đạo trong nội bộ Đạo Cao Đài, can thiệp vào việc thờ phụng tại nhà và "Khai Trừ Khỏi Đạo”, đàn áp xuyên quốc gia đối với Cao Đài 1926 và tịch thu tài sản của Cao Đài 1926…”. Đây là thông tin sai lệch, xuyên tạc, bóp méo về đạo Cao Đài tại Việt Nam của USCIRF, cụ thể:



Thứ nhất, thông tin do USCIRF đưa ra là đạo Cao Đài hiện nay bị Nhà nước kiểm soát bằng tổ chức “Chi phái Cao Đài 1999” do Nhà nước lập ra, các thành viên lãnh đạo của chi phái này cũng tham gia vào trong tổ chức chính trị - đoàn thể của chính quyền như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hay giữa vai trò là đại biểu hội đồng nhân dân các cấp hoặc đại biểu quốc hội… Nghiên cứu, báo cáo của USCIRF cũng chỉ ra Nhà nước Việt Nam sử dụng chi phái Cao Đài 1997 giám sát để kiểm soát và quản lý các tín đồ Cao Đài, trong khi chi phái Cao Đài Chơn Truyền 1926 là một tổ chức tôn giáo độc lập, bị đe dọa, chèn ép bởi chi phái Cao Đài 1997 (do Nhà nước lập lên). Trên thực tế, vụ việc “chi phái Cao Đài 1997 và Cao Đài Chơn Truyền 1926” được tổ chức “Ủy ban cứu người vượt biển - BPSOS” liên tục chia sẻ trên mạng xã hội trong thời gian gần đây, thực chất là mâu thuẫn giữa hai tổ chức tôn giáo Cao Đài trên lãnh thổ Hoa Kỳ nhằm phân chia địa bàn hoạt động, tài sản và tư cách pháp nhân. Các thông tin mà USCIRF chia sẻ đều do BPSOS (do Nguyễn Đình Thắng tại Mỹ cầm đầu, núp danh nghĩa NGO hoạt động về dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo để chống phá Nhà nước Việt Nam) cung cấp vu khống Nhà nước Việt Nam khi cho rằng chi phái Cao Đài 1997 (chi phái của Hội thánh Cao Đài Tòa thánh Tây Ninh tại Hoa Kỳ) “do nhà nước Việt Nam dựng lên” để “diệt đạo Cao Đài ở Việt Nam” và “tấn công” những người bảo vệ đạo Cao Đài Chơn Truyền 1926… tại Hoa Kỳ. Điều này là vô cùng sai lầm vì hiện tại Việt Nam không có cái gọi là “chi phái Cao Đài 1997” và “Cao Đài Chơn Truyền 1926” mà chỉ có 10 Hội thánh Cao Đài, 21 tổ chức Cao Đài hoạt động độc lập do Nhà nước công nhận và 01 pháp môn Cao Đài được Nhà nước cấp đăng ký hoạt động tôn giáo. Hội thánh Cao Đài Tòa thánh Tây Ninh là một trong số đó, đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. Mặt khác, việc các thành viên hoặc lãnh đạo của tổ chức tôn giáo tại Việt Nam, mà ở đây là đạo Cao Đài tham gia hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội của chính phủ là điều hoàn toàn bình thường. Thậm chí đó còn là điều kiện thuận lợi để các thành phần đó tham gia vào quá trình góp ý hoặc đề xuất cho ban hành các chính sách, pháp luật phù hợp với mong muốn, nguyện vọng của tín đồ tôn giáo mà họ là thành viên, ngược lại phía chính quyền cũng sẽ có được một đội ngũ tư vấn, tham mưu để thực hiện đúng, có hiệu quả các chính sách đã được thông qua.

Báo cáo của USCIRF còn đưa ra thông tin cho rằng, Nhà nước “đàn áp, hạn chế quyền tự do đi lại” của tín đồ Cao Đài 1926 như Trần Ngọc Sương, Nguyễn Xuân Mai, Nguyễn Ngọc Diến, Trần Thanh Tuyết, Nguyễn Anh Phụng, Lê Văn Một, Trần Quốc Tiến, Lương Thị Nở, Nguyễn Hồng Phượng, và nhiều người khác. Trong khi đó, các chức sắc của Chi phái 1997 được tự do ra nước ngoài, gồm cả việc gặp gỡ các quan chức chính phủ Hoa Kỳ”. Điều này là rất dễ hiểu, vì sao Nhà nước Việt Nam vẫn đảm bảo quyền cho tín đồ Cao Đài khác được xuất cảnh ra nước ngoài để làm việc, học tập, thậm chí “gặp gỡ các quan chức chính phủ Hoa Kỳ” mà chỉ ngăn chặn đối với Trần Ngọc Sương, Nguyễn Xuân Mai, Nguyễn Ngọc Diến, Trần Thanh Tuyết, Nguyễn Anh Phụng, Lê Văn Một, Trần Quốc Tiến, Lương Thị Nở, Nguyễn Hồng Phượng? Trên thực tế, những đối tượng trên đều có những hoạt động đi ngược lại với pháp luật Việt Nam, chống lại nền an ninh quốc gia khi ý đồ xuất cảnh ra nước ngoài tham gia các buổi đào tạo, huấn luyện của BPSOS và tham gia các hội nghị, hội thảo quốc tế nhằm tuyên truyền, xuyên tạc về tình hình tôn giáo tại Việt Nam. Theo pháp luật Việt Nam, những trường hợp như bị can, bị cáo hoặc đang bị điều tra thì cần phải bị tạm hoãn xuất cảnh để đảm bảo họ không bỏ trốn ra nước ngoài. Còn việc các đối tượng này bị tôn giáo của họ khai trừ ra khỏi đạo là do những vi phạm của họ trong hoạt động thực hành tôn giáo, không thể quy kết trách nhiệm của nhà nước vì hành vi sai phạm của tín đồ được.

Từ nhiều năm qua, USCIRF đã đưa ra nhiều bản báo cáo, nghiên cứu, trong đó có nhiều thông tin sai lệch, thiếu thiện chí về tình hình tôn giáo tại Việt Nam. Những thông sai lệch này chủ yếu là do các cá nhân, tổ chức phản động người Việt lưu vong ở bên ngoài, nổi lên là “Ủy ban cứu người vượt biển - BPSOS” cung cấp, xuyên tạc, bóp méo. Chúng chăm chăm dựa vào các thông tin một chiều về những chủ trương, chính sách và pháp luật của Nhà nước Việt Nam về dân tộc, tôn giáo để vận động USCIRF trình chính phủ Mỹ “đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo”, làm bàn đạp để gây sức ép, can thiệp vào các công việc nội bộ của Việt Nam. Tuy vậy, Việt Nam là một đất nước yêu chuộng hòa bình, Đảng và Nhà nước luôn nêu cao tinh thần tôn trọng quyền tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, không có sự phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo. Thực tiễn đã chứng minh, tại Việt Nam người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau cùng chung sống hài hòa trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam với một mong muốn, mục tiêu chung tay xây dựng đất nước giàu đẹp. Do đó, USCIRF nên có những tìm hiểu sâu hơn, ngoài đạo Cao Đài còn Phật giáo, Thiên chúa giáo, Phật giáo Hòa Hảo, đạo Tin Lành… ở Việt Nam đều có nhiều đặc điểm khác nhau nhưng đều có đời sống hòa hợp và bao dung giữa các tôn giáo cũng như sự đồng thuận giữa các tôn giáo và Nhà nước. Để từ đó USCIRF mới có những đánh giá đúng đắn về tình hình tôn giáo tại Việt Nam.

 

Thứ Tư, 6 tháng 11, 2024

Phản bác luận điệu luật pháp Việt Nam kiểm soát, hạn chế tự do tôn giáo của USCIRF

 


Vào cuối tháng 9 vừa qua, tổ chức Ủy hội Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế - USCIRF (là tổ chức do Chính phủ Mỹ trao quyền nghiên cứu và báo cáo về tình hình tự do tôn giáo của từng quốc gia, ngoại trừ tình hình tự do tôn giáo của Mỹ) đã công bố một bản nghiên cứu với tên gọi “Nhà nước kiểm soát và Tự do tôn giáo ở Việt Nam” dài 33 trang trong đó nhận định Nhà nước Việt Nam sử dụng luật pháp ( gồm Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, Luật Đất đai năm 2013, Bộ luật hình sự năm 2015, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018) để kiểm soát tự do tôn giáo ở trong nước. Lập luận do USCIRF là hoàn toàn lố bịch và vô minh vì các lí do sau đây:

- Thứ nhất, ở mọi quốc gia, vùng lãnh thổ, pháp luật tạo lập cơ sở pháp lý vững chắc cho sự tồn tại của Nhà nước, bởi lẽ bất cứ một chính quyền nào được tạo nên đều phải đảm bảo tính hợp pháp, trong khi đó pháp luật chính là công cụ để đảm bảo sự hợp pháp đó. Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, có vai trò giải quyết các mâu thuẫn trong xã hội. Bởi có thể thấy, trong xã hội việc phát sinh các mâu thuẫn là điều không tránh khỏi, khi các mâu thuẫn phát sinh, cần phải có căn cứ để các bên dựa vào đó để giải quyết các mâu thuẫn của mình. Và khi đó, pháp luật là công cụ hữu hiệu nhất.

Trên thế giới, về lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng đã được ghi nhận trong Luật Nhân quyền quốc tế là ngành luật được Liên Hợp quốc xây dựng từ sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ngay trong văn kiện nền tảng nhất của ngành luật này là Tuyên ngôn nhân quyền thế giới (UDHR, 1948) đã ghi nhận quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong Điều 18 cùng với quyền tự do tư tưởng và lương tâm. Điều 18 UDHR nêu: "Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, lương tâm và tôn giáo, bao gồm tự do thay đổi tín ngưỡng hoặc tôn giáo của mình và tự do dưới hình thức cá nhân hay tập thể, tại nơi công cộng hoặc nơi riêng tư, bày tỏ tín ngưỡng hay tôn giáo của mình bằng các hình thức như truyền giảng, thực hành, thờ cúng và tuân thủ các nghi lễ". Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là một quyền con người cơ bản, có ý nghĩa quan trọng với cuộc sống tinh thần của nhiều cá nhân và mọi xã hội, tuy nhiên không phải là quyền tuyệt đối theo luật nhân quyền quốc tế.

Theo đó, trong đoạn 2 Bình luận chung số 22, Uỷ ban Nhân quyền cũng đã giải thích chi tiết, cần phân biệt giữa tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm, tôn giáo hoặc tín ngưỡng với tự do thể hiện (hay bày tỏ, thực hành) tôn giáo hay tín ngưỡng. Tự do tư tưởng, niềm tin lương tâm, tôn giáo là quyền tuyệt đối, thể hiện ở việc không ai có thể bị ép buộc phải tiết lộ những suy nghĩ của mình hoặc bị bắt buộc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng nào đó (những quyền tự do này được bảo vệ vô điều kiện, tương tự như với quyền được giữ ý kiến mà không bị can thiệp ở Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị - ICCPR). Trong khi đó, tự do thể hiện (hay bày tỏ, thực hành) tôn giáo hay tín ngưỡng lại là một quyền hạn chế bởi pháp luật khi cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác. Tính giới hạn của quyền tôn giáo hay tín ngưỡng còn được thể hiện cụ thể qua nội dung của Điều 20 ICCPR trong đó nghiêm cấm việc thực hành tôn giáo hoặc tín ngưỡng mà có tính chất tuyên truyền cho chiến tranh hoặc cổ vũ hận thù dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, hay kích động sự phân biệt đối xử, thù địch hoặc bạo lực. Do đó có thể thấy, tôn giáo hay tín ngưỡng là những quyền căn bản của con người, tuy nhiên quyền tự do tín ngưỡng phải được thực hiện phù hợp với luật pháp, không thể lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để kích động những hành động đi ngược lại với hòa bình, đoàn kết trong dân tộc được.

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo nhưng trong suốt lịch sử phát triển không có xung đột tôn giáo, tín ngưỡng, người theo tín ngưỡng, tín đồ tôn giáo và người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, người theo tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau sống đan xen, hài hòa khắp lãnh thổ của Việt Nam. Theo khảo sát đa dạng tôn giáo toàn cầu của Viện Diễn đàn Pew (Hoa Kỳ) công bố 10 năm trước, Việt Nam đã nằm trong số 12 quốc gia trên thế giới được công nhận là có mức độ đa dạng tôn giáo rất cao. Có được sự hòa thuận và đa dạng đó là do Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân và được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật. Theo đó, tại Điều 24, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã khẳng định: “(1). Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; (2). Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; (3). Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Cùng với Hiến pháp năm 2013, việc thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và hai Nghị định thực thi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc để bảo đảm tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho người dân, đồng thời thực tiễn đã chứng minh, từ khi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 đi vào đời sống, số lượng chức sắc, chức việc, cơ sở thờ tự và công dân theo tôn giáo tăng theo thời gian, ở tất cả các tôn giáo.  Nếu năm 2003, cả nước có 15 tổ chức thuộc 06 tôn giáo với 17 triệu tín đồ, khoảng 20.000 cơ sở thờ tự, 34.000 chức sắc, 78.000 chức việc, thì năm 2022, Nhà nước đã công nhận 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo với 26,7 triệu tín đồ, 55.000 chức sắc, 135.000 chức việc, trên 29.000 cơ sở thờ tự…

Bên cạnh đó, Luật Đất đai năm 2013 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2024 đã có những quy định bổ sung được nhận định là phù hợp với lợi ích chính đáng hiện nay của các tổ chức tôn giáo hoạt động hợp pháp trên lãnh thổ Việt Nam, ví dụ: định nghĩa đất tôn giáo tại Điều 213 Luật Đất đai 2024 được khái quát bao gồm đất xây dựng cơ sở tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, tổ chức tôn giáo trực thuộc và công trình tôn giáo hợp pháp khác. Về nhận quyền sử dụng đất, Điều 169 Luật Đất đai quy định người nhận quyền sử dụng đất được quy định gồm nhiều đối tượng, trong đó có: Cơ sở tôn giáo được nhận quyền sử dụng đất thông qua việc Nhà nước giao đất; Cơ sở tôn giáo được nhận quyền sử dụng đất thông qua việc Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất đối với đất đang được sử dụng ổn định; Cơ sở tôn giáo được nhận quyền sử dụng đất theo kết quả hòa giải thành về tranh chấp đất đai được Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền công nhận; quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về giải quyết tranh chấp đất đai, khiếu nại, tố cáo về đất đai, quyết định hoặc bản án của Tòa án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án đã được thi hành. Tương tự, Bộ luật hình sự năm 2015, Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018 cũng có những quy định liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng và đều đảm bảo cho quyền tự do, tín ngưỡng của người dân được đảm bảo; ngăn chặn sự kỳ thị hay xung đột về tôn giáo, tín ngưỡng.

Thực tiễn chứng minh, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam những năm qua diễn biến hết sức sinh động, phong phú và đa dạng. Luật pháp Việt Nam, đặc biệt là Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 đảm bảo cho cho tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam. Những thành tựu đó không chỉ nhân dân, tín đồ các tôn giáo ghi nhận, mà còn được cả cộng đồng quốc tế thừa nhận. Việc Ủy hội Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế - USCIRF cáo buộc Việt Nam sử dụng Luật Tín ngưỡng, tôn giáo để đàn áp các nhóm tôn giáo của người thiểu số và các nhóm tôn giáo không được chính phủ công nhận là hoàn toàn sai lệch, định kiến. USCIRF còn có hành động tục can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam khi kêu gọi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chỉ định Việt Nam là quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo – CPC vì cho rằng Việt Nam đã “đàn áp tôn giáo một cách nghiêm trọng”. Việt Nam bác bỏ những nhận định không khách quan, mang tính định kiến và không chính xác về tình hình thực tế tại Việt Nam được nêu trong báo cáo “Nhà nước kiểm soát và Tự do tôn giáo ở Việt Nam” của USCIRF. Đề nghị USCIRF trao đổi thêm với cơ quan chức năng của Việt Nam về vấn đề tôn giáo trên tinh thần tinh thần cởi mở, thẳng thắn và tôn trọng lẫn nhau để đóng góp vào việc thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện.

.

 

 

 

Lật tẩy chiêu bài tự do tôn giáo để chống phá Nhà nước Việt Nam của “Ủy ban cứu người vượt biển - BPSOS"

 

Trong ngày 09/10/2024 vừa qua, tổ chức phản động “Ủy ban cứu người vượt biển - BPSOS” do Nguyễn Đình Thắng ở Mỹ cầm đầu đã tổ chức một chuỗi “hội luận ” ở Berlin, Đức về cái gọi là “Các trợ cụ đàn áp tôn giáo ở Việt Nam”, trong đó nêu lên “3 sách lược chính mà Nhà cầm quyền Việt Nam sử dụng để kiểm soát tôn giáo”. Đây được coi là câu chuyện tưởng tượng với “thuyết âm mưu” vô cùng lố bịch của tổ chức BPSOS nhằm tuyên truyền, xuyên tạc về tình hình tôn giáo và chính sách của Nhà nước Việt Nam về tôn giáo.




Thứ nhất là thay thế, Nguyễn Đình Thắng, cầm đầu BPSOS cho rằng Chính phủ Việt Nam thực hiện “chiến lược thay thế” thông qua thành lập các tổ chức tôn giáo do nhà nước lập ra gồm Giáo hội phật giáo Việt Nam để thay thế cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, Chi phái Cao Đài 1997 thay thế cho Hội thánh Cao đài Chơn truyền (1926) và Ban trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo để thay thế cho Ban trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo nguyên thủy. BPSOS xuyên tạc, “Chính phủ đã cấm các tổ chức giáo hội phật giáo cũ hoạt động, bỏ tù phàn lớn lãnh đạo của các tổ chức này, phá hủy, chiếm đoạt hoặc chuyển tài sản của các cơ sở này thành cơ sở của Chính phủ”. Những luận điệu này được coi là hết sức vô lý và không có cơ sở. Đầu tiên, tôn giáo, ngoài là một tín ngưỡng, niềm tin còn là một thực thể xã hội vì thế hoạt động tôn giáo ở quốc gia nào thì phải chịu sự quản lý của quốc gia đó. Khi một tổ chức được quốc gia công nhận thì tổ chức đó có tư cách pháp nhân (Giáo hội phật giáo Việt Nam, Chi phái Cao Đài 1997, Ban trị sự Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo) và ngược lại, khi tổ chức tôn giáo khi chưa được nhà nước công nhận, đồng nghĩa với việc tổ chức tôn giáo đó chưa có tư cách pháp nhân (Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất, Hội thánh Cao đài 1926, Trung ương Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo nguyên thủy). Mặt khác, tôn giáo và hoạt động tôn giáo ở bất kỳ một quốc gia nào cũng phải tuân thủ pháp luật. Các tổ chức tôn giáo mà BPSOS nêu tên, coi là “nguyên thủy”, “nguyên bản”, “chính gốc” thực chất đều do các đối tượng chống đối cực đoan đang lưu vong ở nước ngoài chỉ đạo hoạt động chống phá Đảng và Nhà nước. Việc đó có nghĩa là những tổ chức này không những không được công nhận, không có tư cách pháp nhân mà còn có hoạt động trái pháp luật Việt Nam. Vậy thì sẽ bị cơ quan chức năng Việt Nam xử lý theo quy định của pháp luật.

Thứ hai là “thỏa hiệp, khuynh loát”. Tại các buổi hội luận, BPSOS cho rằng Nhà nước Việt Nam sử dụng chính sách thỏa hiệp, khuynh loát đối với Hội thánh Tin Lành Việt Nam khi coi đây là tổ chức “lai” những vẫn thỏa hiệp cho tổ chức này tồn tại nhưng kiểm soát và đối xử bất bình đẳng như không cho nhận quốc tịch (tình trạng vô quốc gia, vô quốc tịch) đối với người H’Mông theo đạo Tin Lành và đàn áp đối với tin lành tại gia của người Thượng tại Tây Nguyên. Điều này là hoàn toàn vu khống, bởi lẽ hiện ở Việt Nam có hơn 1,2 triệu người theo đạo Tin Lành, trong đó có khoảng 873.700 tín đồ là người dân tộc thiểu số, phân bố tập trung ở vùng trung du miền núi phía Bắc và khu vực Tây Nguyên, là những đối tượng luôn được Đảng, Nhà nước và Chính phủ đã đã có nhiều chủ trương, chính sách tập trung đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, các tổ chức phản động lưu vong, nổi lên là BPSOS và “Việt Tân” móc nối, lừa phỉnh, lôi kéo, kích động bà con người Mông gây rối, kích động chống đối chính sách, pháp luật, bất hợp tác với chính quyền trong việc giải quyết các vấn đề phức tạp về ANTT tại địa phương hay công khai bày tỏ thái độ thách thức chính quyền, coi thường pháp luật, gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. BPSOS còn tài trợ cho Y Quynh Bdap, đối tượng dân tộc Ê Đê ở Tây Nguyên, theo đạo tin lành, trốn sang Thái Lan, thành lập tổ chức phản động “Người Thượng vì công lý MSFJ” chỉ đạo số thành viên trong nước thực hiện cuộc khủng bố đẫm máu tại Đắk Lắk hồi tháng 6/2203. Những hành vi lừa gạt bà con đồng bào, tài trợ khủng bố của BPSOS phải bị trừng trị.

Thứ ba, BPSOS công kích chính phủ Việt Nam thực hiện sách lược xâm nhập với Giáo hội Công giáo khi thành lập Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam nhằm làm suy yếu ảnh hưởng của Tòa Thánh Vatincan tại Việt Nam; xuyên tạc Việt Nam “tấn công linh mục và giáo dân lên tiếng chống lại bất công trong xã hội và môi trường, bảo vệ tự do tôn giáo hoặc từ chối thỏa hiệp với chính quyền”. Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng quan hệ với Tòa Thánh Vatincan, và đã thiết lập mối quan hệ ngoại giao và nâng cấp quan hệ lên Đại diện thường trú của Tòa thánh tại Việt Nam. Mặt khác, số đối tượng mà Việt Nam bắt, xử lý nhà những đối tượng vi phạm pháp luật Việt Nam, không ai có thể nhân danh “bảo vệ tự do tôn giáo” mà có thể đi ngược lại với pháp luật của quốc gia họ đang sống được.

Trên thực tiễn, ngay sau khi nước Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời vào năm 1945 đến nay, Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm hỗ trợ các tôn giáo ở nước ta phát triển nhanh về số lượng tín đồ và cơ sở thờ tự, mở rộng quan hệ với nhiều tổ chức, cá nhân tôn giáo, đồng đạo ở nước ngoài; mọi hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân đều được chính quyền tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi; đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các tôn giáo ngày càng được nâng cao. Nhà nước Việt Nam không hề phân biệt đối xử là tổ chức tôn giáo cũ hay tổ chức tôn giáo thuộc quản lý của Nhà nước, tuy nhiên, số đối tượng chống đối cực đoan trong tôn giáo đã chạy trốn ra nước ngoài vẫn chưa từ bỏ âm mưu, ý đồ muốn chỉ đạo số tay chân, cơ sở trong nước để xuyên tạc, bôi nhọ nhà nước Việt Nam không cho thực hiện tự do tôn giáo hay là cấm các tổ chức tôn giáo độc lập, qua đó vận động Mỹ và các nước phương Tây gây sức ép với Việt Nam về vấn đề tôn giáo. Đây là hành động đi ngược lại với tín ngưỡng, mục tiêu hoạt động của bất kỳ một tôn giáo nào và cần phải bị lên án, loại bỏ ra khỏi xã hội.



Thứ Ba, 5 tháng 11, 2024

Đừng lợi dụng khuyến nghị UPR để chọc ngoáy, chống phá Việt Nam

 


Bất chấp việc Việt Nam đã thông báo quyết định chấp thuận 271/320 khuyến nghị các nước đưa ra, đạt tỷ lệ 84,7%, cao nhất từ trước đến nay, nhưng với một số cơ quan truyên thông ác ý và trang phản động vẫn viện dẫn 49 khuyến nghị không chấp nhận mới là cơ bản, căn cốt, quan trọng nhất của buổi học thêm

Chẳng hạn như cái loa rè RFA chuyên nghề chọc ngoáy, chống phá Việt Nam lại tung ra bài viết “Hai tổ chức nhân quyền lên án Việt Nam tại Hội đồng Nhân quyền LHQ”. Theo đó: “Hai tổ chức nhân quyền là Liên Đoàn Quốc tế Nhân quyền (FIDH) và Uỷ ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam (VCHR) đã lên án tình trạng vi phạm nhân quyền tại Việt Nam tại khoá họp lần thứ 57 của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc vào ngày 27/9 vừa qua, đồng thời kêu gọi các quốc gia thành viên LHQ yêu cầu Chính phủ Việt Nam phải trả tự do cho tất cả các tù chính trị”. Cảm thấy như chưa đủ, RFA còn rêu rao những việc cụ thể như “Hai tổ chức nhân quyền cũng bày tỏ quan ngại về tình trạng của các tù nhân lương tâm bao gồm luật sư môi trường Đặng Đình Bách, người đang thụ án tù năm năm với tội danh trốn thuế mà các tổ chức quốc tế cho là nguỵ tạo, TNLT Nguyễn Chí Tuyến và Nguyễn Vũ Bình (đang thụ án 5 năm và 7 năm tù), nhà báo Trương Huy San – người vừa bị bắt giữ trong năm nay”.

Có thể nói, những người quan tâm tới thời cuộc và có những kiến thức nhất định về chính trị, xã hội đều biết rằng nhân quyền là một khái niệm có tính phổ quát toàn cầu, quy định trong nhiều văn bản luật pháp quốc tế cũng như quy định trong quá trình xây dựng pháp luật các quốc gia. Thế nhưng, nhân quyền vẫn bị hiểu sai lệch, bị bóp méo trong tư duy, quan điểm của không ít tổ chức, cá nhân và khi khái niệm đó bị “đánh tráo” theo động cơ, ý đồ riêng.

Nhân quyền từ lâu trở thành lá bài hết sức lợi hại mà những người dùng nó để lên án, phê phán một quốc gia khác có thể xoay chuyển “tình hình nhân quyền” theo ý của mình, là một cái cớ để đánh lừa dư luận quốc tế, qua đó vẽ ra viễn cảnh nghiêm trọng để tìm cách can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Trong chiến lược “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch vấn đề “Nhân quyền” luôn là nội dung trọng tâm mà các đối tượng chú ý khoét sâu, tập trung vào các địa bàn trọng điểm về chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội để hoạt động từ đó thúc đẩy, phát triển mâu thuẫn, tạo dựng ngọn cờ để chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Thực tế đã cho thấy các nhận định, đánh giá sai lệch về tình hình nhân quyền tại Việt Nam vẫn luôn tái diễn, trong đó có những vấn đề mà họ gọi là “tù nhân lương tâm”, “đàn áp nhân quyền”, “bịt miệng nhà dân chủ”, “không có tự do ngôn luận”… Những dẫn chứng đưa ra vẫn xoay quanh điệp khúc cũ, trong đó điển hình là những đối tượng vi phạm pháp luật bị xử lý hình sự vẫn được ca ngợi là vì nhân quyền.

Có lẽ cần điểm mặt một trong những kẻ mà RFA gọi là “tù nhân lương tâm” như Nguyễn Chí Tuyến ở trên để thấy rõ họ đã lu loa vô lối như thế nào về những nhân vật này rồi từ đó làm cái cớ để bôi đen sự thật và công kích, chống phá Việt Nam. Nguyễn Chí Tuyến được biết đến với biệt danh “Anh Chí Râu Đen”, kẻ đã có nhiều lần sử dụng quyền tự do ngôn luận để phát tán những thông tin sai lệch, kích động bạo lực và chống phá Nhà nước Việt Nam. Nguyễn Chí Tuyến là một trong những người sáng lập nhóm No-U, lợi dụng sự phản đối Trung Quốc với đường lưỡi bò ở Biển Đông để cổ vũ tư tưởng dân tộc cực đoan, phá hoại chính sách ngoại giao và an ninh quốc gia của Việt Nam. Những hoạt động của đối tượng này không chỉ dừng lại ở việc phát tán thông tin trên mạng xã hội mà còn trực tiếp tổ chức, kích động các cuộc biểu tình trái phép ở những điểm nóng như Văn Giang, Dương Nội, Đồng Tâm. Trong các clip đăng tải trên kênh YouTube “Anh Chí Râu Đen,” Nguyễn Chí Tuyến không ngần ngại sử dụng ngôn từ kích động, vu cáo chính quyền và chửi bới lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đã rất nhiều lần, Nguyễn Chí Tuyến công nhiên thách thức “cộng sản” giết mình, phỉ báng những người dân lao động là “súc vật,” “tốn cơm gạo của thế gian” và kích động tư tưởng chống đối Đảng Cộng sản Việt Nam. Hành vi này không chỉ vi phạm pháp luật mà còn gây nguy hại đến an ninh quốc gia, làm mất ổn định xã hội và gieo rắc tư tưởng cực đoan trong một bộ phận dân chúng.

Một trong những khía cạnh đáng chú ý trong hoạt động của Nguyễn Chí Tuyến là sự lạc lõng và biến tướng trong lý tưởng “yêu nước” mà ông ta tự nhận. Thay vì đóng góp xây dựng đất nước, Nguyễn Chí Tuyến đã dần biến mình thành một biểu tượng của một kẻ “kinh doanh dân chủ”, sử dụng các hoạt động đấu tranh dân chủ làm vỏ bọc để kiếm lợi cá nhân và xây dựng lực lượng đối lập. Điều này không chỉ gây phản cảm đối với người dân mà còn bị ngay chính hàng xóm của ông ta chỉ trích là “làm màu” để duy trì lực lượng và thu tiền từ các tổ chức phản động hải ngoại. Trong khi một số tổ chức phản động và những kẻ lợi dụng quyền tự do ở nước ngoài tôn vinh Nguyễn Chí Tuyến như một “người hùng” thì phần lớn người dân và dư luận cộng đồng nhận thức rõ ràng rằng hành vi của Nguyễn Chí Tuyến là vi phạm pháp luật và gây nguy hại cho xã hội. Bản án 5 năm tù giam dành cho Nguyễn Chí Tuyến không chỉ là sự trừng phạt cá nhân ông ta mà còn là lời cảnh báo nghiêm khắc đối với những kẻ lợi dụng quyền tự do để chống phá Nhà nước.

Pháp luật Việt Nam luôn bảo vệ quyền tự do ngôn luận và các quyền cơ bản của con người. Tuy nhiên, khi quyền này bị lợi dụng để xâm hại an ninh quốc gia và xâm hại tới cộng đồng, thì việc áp dụng pháp luật là cần thiết và đúng đắn. Trong trường hợp của Nguyễn Chí Tuyến, bản án 5 năm tù giam là minh chứng rõ ràng cho sự công bằng của pháp luật, đồng thời bảo vệ lợi ích chung của xã hội và giữ vững an ninh quốc gia. Dựa trên những quy định của pháp luật, bản án đối với Nguyễn Chí Tuyến là hoàn toàn đúng người, đúng tội và công bằng. Nó thể hiện quyết tâm của Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ an ninh quốc gia, đồng thời gửi đi thông điệp rõ ràng rằng mọi hành vi vi phạm pháp luật sẽ bị trừng trị thích đáng.

Cũng như mọi quốc gia dân chủ trên thế giới, Việt Nam xử lý những kẻ vi phạm pháp luật là điều hết sức cần thiết, không thể lu loa gọi đây là vi phạm nhân quyền và gọi những kẻ vi phạm pháp luật là “tù nhân lương tâm” như luận điệu mà RFA đang cổ súy, tung hô để công kích, chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam!

 

“Giấc mộng” UPR không thành công

 


Mỗi lần Việt Nam thực hiện phiên kiểm điểm UPR, làng zân chủ lại hồ hơi, xem đây như là cơ hội để bôi xấu hình ảnh Việt Nam trên điễn đàn Nhân quyền quốc tế. Hoạt động phổ biến của họ được đúc kết chủ yếu như sau:

(1) Lập ra thật nhiều “báo cáo” gửi tới Hội đồng Nhân quyền LHQ trước phiên UPR Việt Nam để “tố cáo” bằng những thông tin xuyên tạc, vu cáo chính phủ, chế độ vi phạm nhân quyền.

(2) Vận động các phái đoàn các nước, nhất là các quốc gia phương Tây lên tiếng can thiệp, đưa ra các khuyến nghị “thay cho nỗi lòng” của họ với yêu sách giúp cho họ thuận lợi trong “đối đầu” với Đảng CSVN.

(3) Tổ chức hoạt động “giễu võ dương oai” bên lề, bên ngoài phiên khiểm điểm UPR cho Việt Nam, họ vận động đưa người vào các tổ chức phi chính phủ nhân quyền can thiệp, đòi  Việt Nam thưc hiện các yêu sách của họ thông qua áp lực ngoại giao và lá phiếu

Tuy nhiên, phiên UPR chu kỳ IV năm nay thực sự thấy chiến dịch này “yếu hẳn” những năm trước. Trong suốt tuần đầu tháng 05/2024, Việt Tân đã liên tục lên bài về sự kiện này, trong đó họ khoe rằng mình được cử đại diện đến điều trần tại UPR, tổ chức biểu tình tại Geneva nhân dịp UPR, và còn tổ chức cả một buổi văn nghệ bên lề sự kiện. Họ cũng lăng xăng tường thuật qua Facebook một vài diễn biến trong phiên kiểm điểm của Việt Nam. Và rồi họ đăng tiếp một loạt bài hậu sự kiện, trong đó họ khoe khoang số quốc gia gửi khuyến nghị, số khuyến nghị đã gửi cho Việt Nam – cả hai đều là những con số lớn. Họ cũng đăng một vài phát biểu có vẻ cứng rắn mà các báo cáo viên của Liên Hợp Quốc gửi đến Việt Nam. Những bài đăng này không nhằm mục đích nào khác, ngoài thuyết phục người đọc tin rằng “quốc tế” đang ủng hộ các nhóm chống cộng cờ vàng, sẵn sàng vì họ mà gây áp lực với chính phủ Việt Nam, và Việt Tân là đầu nậu số một giúp tạo ra những áp lực đó.

 

Tuy nhiên ngay sau phiên UPR chu kỳ IV,  “nhà chống cộng” Nguyễn Văn Đài đã than thở với RFA rằng các kỳ UPR không còn có tác dụng. Nếu trước đây, chính phủ Việt Nam thường thả một vài “nhà chống cộng” mỗi lần có đối thoại nhân quyền, thì hiện nay họ chẳng thả ai. Như vậy, đối với các “nhà chống cộng” như Đài, UPR chỉ còn mang tính hình thức, chỉ còn làm cho có. Khi RFA hỏi nguyên nhân của hiện tượng này, Nguyễn Văn Đài đổ lỗi cho phương Tây. Đài cho rằng vì các nước phương Tây không có chế tài cụ thể nào để trừng phạt Việt Nam, UPR rốt cuộc đã không mang lại hiệu quả gì trong thực tế.

Một “nhà chống cộng” giấu tên cũng than phiền với RFA rằng: “Tôi thấy phiên kiểm định rất hời hợt. Các quốc gia đưa ra khuyến nghị dường như đưa ra cho vui hoặc là qua loa. Có một vài nước đề cập một cách hời hợt tới các quyền tự do cơ bản như quyền tự do báo chí, hội họp, công đoàn, án tử hình”. Theo lời nhân vật giấu tên này, phương Tây không nhiệt tình bênh “cờ vàng” tại UPR là vì lợi ích. “Họ im lặng vì có thể lợi ích kinh tế từ Việt Nam mang lại cho nước họ. Thêm nữa, thế giới hiện nay phải đối mặt với nhiều vấn đề gai góc hơn như (dải) Gaza, Ukraine…”.

Tuy nhiên, căn nguyên, gốc rễ của thất bại này, dường như các “nhà chống cộng” như Nguyễn Văn Đài hay kẻ giấu tên kia đều tránh né không dám đề cập đến, đó là thành tựu phát triển kinh tế, xã hội và con người đáng ghi nhận của Việt Nam những năm vừa qua là không thể phủ nhận. Đó là vị thế quốc gia, đóng góp quốc tế, uy tín chính trị ngày càng gia tăng của Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế nói chung, tại chính Hồi đồng nhân quyền nói riêng. Không phải tự dưng mà Việt Nam tuyên bố ứng cử thành viên Hội đồng này nhiệm kỳ thứ 3. Đáng thương cho những con tốt thí và những kẻ vì hận thù, cay cú và ảo tưởng cố bịt mắt, bịt tai không đối mặt với hiện thực này.

 

Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2024

Hãy thôi lợi dụng UPR để xuyên tạc

 


Việc Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc thông qua Báo cáo Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR) chu kỳ IV của Việt Nam vào ngày 27/9/2024 là một sự kiện quan trọng khẳng định cam kết và nỗ lực của Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Báo cáo này không chỉ là sự công nhận từ cộng đồng quốc tế đối với những thành tựu nhân quyền của Việt Nam, mà còn là lời đáp trả thuyết phục trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch và một số tổ chức nhân quyền thiếu thiện cảm. Những chỉ trích thiếu cơ sở đã bị phản bác bằng thực tế rằng Việt Nam đang không ngừng cải thiện hệ thống pháp luật và chính sách để bảo vệ quyền con người, đồng thời đóng góp tích cực vào các nỗ lực bảo vệ nhân quyền trên toàn cầu.

Các tổ chức và cá nhân có cái nhìn tiêu cực về tình hình nhân quyền tại Việt Nam thường đưa ra những cáo buộc thiếu căn cứ về tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tự do tôn giáo và việc bảo vệ các nhóm yếu thế. Họ chỉ trích rằng Việt Nam hạn chế quyền tự do của công dân và không tôn trọng nhân quyền theo các tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, các luận điệu này thường dựa trên thông tin phiến diện, không được kiểm chứng, hoặc cố tình bóp méo thực tế.

Một trong những luận điểm thường xuyên được đưa ra là Việt Nam hạn chế quyền tự do ngôn luận và báo chí. Tuy nhiên, thực tế cho thấy Việt Nam có một hệ thống truyền thông phong phú với hơn 800 cơ quan báo chí và phát thanh truyền hình hoạt động trên cả nước. Người dân có quyền tiếp cận thông tin đa chiều và tự do bày tỏ quan điểm của mình trên nhiều nền tảng, bao gồm cả mạng xã hội. Những hành vi vi phạm pháp luật dưới danh nghĩa "tự do ngôn luận" là những trường hợp cá biệt và không phản ánh đúng tình hình tổng thể.

Luật Báo chí (2016) và các văn bản pháp luật khác đã tạo ra một khuôn khổ pháp lý rõ ràng để đảm bảo sự phát triển của truyền thông, đồng thời bảo vệ quyền lợi của công dân. Việt Nam cam kết bảo vệ tự do ngôn luận trong khuôn khổ pháp luật, và điều này được quốc tế ghi nhận qua việc Hội đồng Nhân quyền thông qua báo cáo UPR của Việt Nam.

Một lĩnh vực khác mà các tổ chức nhân quyền xuyên tạc là quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam. Trên thực tế, Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, nơi các tín ngưỡng và tôn giáo khác nhau được tôn trọng và bảo vệ theo pháp luật. Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo (2016) đã tạo điều kiện cho hàng triệu tín đồ thuộc nhiều tôn giáo khác nhau sinh hoạt tự do. Hơn 55.000 cơ sở tôn giáo hoạt động trên khắp cả nước là minh chứng cho sự tôn trọng và bảo vệ tự do tôn giáo của nhà nước.

Những cáo buộc về việc hạn chế tôn giáo tại Việt Nam thường không dựa trên thực tế, mà dựa trên những trường hợp cá biệt liên quan đến vi phạm pháp luật, trong khi toàn cảnh tự do tôn giáo tại Việt Nam lại bị bỏ qua.

Ngoài ra, Việt Nam bị chỉ trích là chưa làm đủ để bảo vệ các nhóm yếu thế như phụ nữ, trẻ em và người dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, các chương trình quốc gia như Chương trình Mục tiêu quốc gia về Giảm nghèo bền vững đã giúp hàng triệu người dân, đặc biệt là các nhóm yếu thế, thoát khỏi cảnh nghèo đói. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 58% năm 1993 xuống dưới 2% hiện nay, cho thấy những nỗ lực không ngừng của Việt Nam trong việc cải thiện đời sống cho mọi người dân.

Những chính sách hỗ trợ phụ nữ, bảo vệ quyền lợi của trẻ em và các chương trình phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã mang lại những kết quả đáng khích lệ, nhưng không được các tổ chức có cái nhìn thiếu thiện cảm thừa nhận. Thay vào đó, họ chỉ tập trung vào những khó khăn còn tồn tại mà bất kỳ quốc gia nào cũng đang phải đối mặt trong quá trình phát triển.

Thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực nhân quyền không chỉ được thể hiện qua sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế, mà còn thông qua các cải cách pháp lý và chính sách trong nước. Việt Nam đã và đang hoàn thiện hệ thống pháp luật để phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người. Các công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, như Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR), Công ước về Quyền Trẻ em (CRC), và Công ước Chống Tra tấn (CAT), đã được nội luật hóa trong các văn bản pháp luật quốc gia.

Việt Nam đã liên tục cập nhật và hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến quyền con người, từ quyền lao động, quyền tiếp cận giáo dục, đến quyền bảo vệ sức khỏe. Hệ thống pháp luật ngày càng phù hợp với các cam kết quốc tế, đặc biệt là sau khi Việt Nam tham gia ký kết các công ước nhân quyền quan trọng. Các luật mới, như Luật Trẻ em, Luật Bình đẳng giới và Luật Người khuyết tật, đã tạo ra khung pháp lý bảo vệ quyền lợi của những nhóm đối tượng yếu thế trong xã hội.

Việt Nam cũng đã đạt được những thành tựu nổi bật trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội để cải thiện đời sống người dân, đảm bảo quyền con người. Chương trình Giảm nghèo bền vững, các chương trình hỗ trợ y tế, giáo dục và phát triển kinh tế cho các nhóm yếu thế đã được triển khai rộng khắp. Những thành tựu này không chỉ góp phần nâng cao chất lượng sống cho người dân Việt Nam, mà còn được quốc tế ghi nhận.

Không chỉ nỗ lực trong việc cải thiện nhân quyền trong nước, Việt Nam còn đóng góp tích cực vào các nỗ lực bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền trên toàn cầu. Việt Nam đã và đang tham gia vào nhiều diễn đàn quốc tế, đóng góp vào việc xây dựng các quy chuẩn quốc tế về quyền con người và hỗ trợ các quốc gia khác trong việc bảo vệ quyền lợi công dân.

Việt Nam đã từng đảm nhận vị trí Ủy viên không thường trực của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc, góp phần thúc đẩy các sáng kiến bảo vệ nhân quyền ở cấp độ toàn cầu. Việt Nam cũng đã tham gia vào nhiều hoạt động gìn giữ hòa bình, hỗ trợ nhân đạo và giúp đỡ các quốc gia bị ảnh hưởng bởi xung đột, thiên tai.

Bên cạnh việc thực hiện các cam kết về nhân quyền thông qua các công ước quốc tế, Việt Nam còn tích cực tham gia vào các cơ chế giám sát và kiểm điểm quốc tế về nhân quyền. Việc Hội đồng Nhân quyền thông qua báo cáo UPR chu kỳ IV của Việt Nam là minh chứng rõ ràng cho việc quốc tế công nhận những đóng góp của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người, không chỉ trong nước mà còn trên phạm vi toàn cầu.

Báo cáo UPR chu kỳ IV được Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc thông qua là sự công nhận mạnh mẽ đối với những nỗ lực và thành tựu nhân quyền của Việt Nam. Những luận điệu xuyên tạc và chỉ trích từ các thế lực thù địch và các tổ chức nhân quyền thiếu thiện cảm đều bị phản bác bằng những thành tựu cụ thể và đóng góp của Việt Nam trong lĩnh vực này. Việc cải cách pháp lý, các chương trình bảo vệ quyền lợi các nhóm yếu thế, và sự tham gia tích cực của Việt Nam vào các diễn đàn quốc tế đã chứng minh rằng Việt Nam không chỉ tôn trọng quyền con người mà còn đóng góp vào việc bảo vệ nhân quyền trên toàn cầu.

Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2024

Báo cáo UPR Việt Nam là lời phản bác mạnh mẽ mọi luận điệu xuyên tạc

 


Việc Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc thông qua báo cáo kiểm điểm định kỳ phổ quát chu kỳ 4 (UPR) của Việt Nam vào ngày 27/9/2024 là minh chứng quan trọng cho thấy những nỗ lực của Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người đã được quốc tế ghi nhận. Đồng thời, đây cũng là lời phản bác mạnh mẽ đối với những luận điệu không chính xác, thiếu khách quan trong Báo cáo riêng của các cơ quan Liên Hợp Quốc tại Việt Nam vào tháng 4/2024. Báo cáo này đã chứa đựng nhiều thông tin sai lệch, không được kiểm chứng và đánh giá phiến diện về tình hình nhân quyền tại Việt Nam.

Trong Báo cáo riêng của các cơ quan Liên Hợp Quốc tại Việt Nam vào tháng 4/2024, nhiều nội dung đã bị bóp méo, không phản ánh đầy đủ và chính xác tình hình thực tế. Cụ thể, một số thông tin liên quan đến tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tự do tôn giáo đã bị thổi phồng và suy diễn một cách tiêu cực. Các cơ quan Liên Hợp Quốc đã bỏ qua những nỗ lực và thành tựu quan trọng của Việt Nam trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, cũng như những cải cách sâu rộng nhằm đảm bảo quyền tự do của người dân.

Trên thực tế, Việt Nam đã không ngừng cải thiện môi trường pháp lý và thể chế nhằm bảo vệ quyền tự do ngôn luận và báo chí. Luật Báo chí (2016) và các văn bản pháp luật liên quan đã đảm bảo sự phát triển của một hệ thống truyền thông đa dạng và mạnh mẽ, với hơn 800 cơ quan báo chí, phát thanh và truyền hình trên cả nước. Người dân có quyền tự do tiếp cận thông tin và bày tỏ quan điểm của mình trên nhiều kênh thông tin khác nhau, bao gồm cả mạng xã hội và các diễn đàn trực tuyến. Báo cáo hồi tháng 4/2024 đã bỏ qua sự phát triển này, thay vào đó tập trung vào những trường hợp cá biệt và chưa được xác thực để kết luận sai lệch.

Báo cáo tháng 4/2024 cũng đưa ra các cáo buộc về việc hạn chế quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam, tuy nhiên những cáo buộc này là thiếu cơ sở. Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo của người dân, điều này được ghi nhận không chỉ trong Hiến pháp mà còn trong các đạo luật cụ thể như Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo (2016). Hiện tại, hàng triệu tín đồ thuộc nhiều tôn giáo khác nhau đang sinh hoạt tự do và không bị phân biệt đối xử tại Việt Nam.

Các hoạt động tôn giáo tại Việt Nam diễn ra công khai, minh bạch và được nhà nước tạo điều kiện thuận lợi. Số lượng cơ sở tôn giáo ngày càng gia tăng, với hơn 55.000 cơ sở tôn giáo đang hoạt động trên cả nước. Thực tế này đã được nhiều tổ chức quốc tế ghi nhận, nhưng lại không được đề cập trong báo cáo của các cơ quan Liên Hợp Quốc vào tháng 4/2024. Báo cáo đã cố tình bóp méo bức tranh tự do tôn giáo tại Việt Nam bằng cách nhấn mạnh những vụ việc cá biệt liên quan đến một số cá nhân vi phạm pháp luật, trong khi bỏ qua những nỗ lực rộng lớn của Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do tôn giáo.

Một trong những nội dung mà Báo cáo hồi tháng 4/2024 nhắm đến là việc Việt Nam "không đủ nỗ lực" trong việc bảo vệ các nhóm yếu thế, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em và người dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, những đánh giá này không chỉ thiếu khách quan mà còn không phản ánh đúng thực tế. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong việc xóa đói giảm nghèo và cải thiện đời sống của các nhóm yếu thế thông qua hàng loạt chương trình quốc gia.

Chương trình Mục tiêu quốc gia về Giảm nghèo bền vững đã giúp hàng triệu người dân, đặc biệt là người dân tộc thiểu số và người dân vùng sâu vùng xa, thoát khỏi cảnh nghèo đói. Tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh qua các năm, từ 58% năm 1993 xuống dưới 2% hiện nay. Các chương trình hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, tăng cường giáo dục cho trẻ em gái và bảo vệ quyền lợi của trẻ em đã mang lại những kết quả tích cực, được cộng đồng quốc tế công nhận.

Báo cáo tháng 4/2024 đã không đánh giá đúng mức các chính sách này và chỉ tập trung vào những khó khăn, thách thức mà Việt Nam đang phải đối mặt. Điều này không chỉ làm méo mó bức tranh tổng thể mà còn phủ nhận những nỗ lực đáng kể của Việt Nam trong việc bảo vệ và nâng cao quyền lợi cho các nhóm yếu thế.

Việc Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc thông qua báo cáo UPR chu kỳ 4 của Việt Nam vào tháng 9/2024 là minh chứng rõ ràng cho việc quốc tế công nhận những tiến bộ của Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Báo cáo UPR lần này không chỉ phản ánh những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được mà còn thừa nhận những thách thức mà Việt Nam đang đối diện trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

Đặc biệt, Hội đồng Nhân quyền đã nhấn mạnh những nỗ lực của Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết quốc tế về nhân quyền. Việt Nam đã tham gia ký kết và thực hiện nhiều công ước quốc tế quan trọng, trong đó có Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR), Công ước về Quyền Trẻ em (CRC) và Công ước Chống Tra tấn (CAT). Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia để phù hợp với các cam kết quốc tế đã thể hiện sự nghiêm túc và cam kết của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người.

Báo cáo UPR chu kỳ 4 của Việt Nam không chỉ nhận được sự ủng hộ từ các quốc gia thành viên Hội đồng Nhân quyền mà còn được nhiều tổ chức quốc tế ghi nhận là minh bạch, khách quan và toàn diện. Điều này đã bác bỏ hoàn toàn những cáo buộc thiếu cơ sở trong Báo cáo riêng của các cơ quan Liên Hợp Quốc hồi tháng 4/2024.

Một vấn đề quan trọng mà cần được làm rõ là tính khách quan và trung thực trong các đánh giá của các cơ quan Liên Hợp Quốc tại Việt Nam. Báo cáo tháng 4/2024 rõ ràng đã thiếu sự cân nhắc kỹ lưỡng khi đưa ra các kết luận thiếu cơ sở và không được kiểm chứng đầy đủ. Những đánh giá như vậy không chỉ làm sai lệch hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế mà còn ảnh hưởng đến uy tín của chính các cơ quan này.

Việc đánh giá nhân quyền tại một quốc gia cần được thực hiện một cách toàn diện, khách quan và dựa trên các tiêu chí quốc tế đã được thống nhất. Tuy nhiên, báo cáo tháng 4/2024 đã bỏ qua nhiều yếu tố quan trọng và chỉ tập trung vào các khía cạnh tiêu cực, không phản ánh đúng bức tranh thực tế. Đây là điều mà cộng đồng quốc tế cần cảnh giác để tránh bị lôi kéo vào các thông tin sai lệch.

Việc Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc thông qua báo cáo UPR chu kỳ 4 của Việt Nam là một thành tựu lớn, khẳng định sự cam kết mạnh mẽ của Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Đồng thời, đây cũng là lời đáp trả thuyết phục đối với những thông tin sai lệch trong Báo cáo riêng của các cơ quan Liên Hợp Quốc hồi tháng 4/2024. Những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong lĩnh vực này không thể bị phủ nhận bởi những đánh giá phiến diện và thiếu cơ sở.


 

Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2024

Sự nực cười của đài Á châu tự do về báo cáo chu kỳ IV của UPR Việt Nam

 

Liên quan việc thông qua báo cáo chu kỳ IV phiên kiểm điểm định kỳ phổ quát UPR với Việt Nam của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc ngày 27/9 vừa qua, trước đó Văn phòng cao ủy nhân quyền Liên Hợp Quốc đã công bố báo cáo chu kỳ IV của UPR. Lợi dụng việc này, đài RFA đăng tải bài viết với những luận điệu xuyên tạc, không thể chấp nhận được về tình hình Việt Nam và báo cáo của Văn phòng cao ủy nhân quyền. Bạn đọc có thể đọc bài viết đó tại đây https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/vietnam-national-upr-report-contains-untrue-information-08132024070846.html

Bài viết trên Đài Á Châu Tự Do (RFA) công kích bản báo cáo UPR của Việt Nam về tình hình nhân quyền đã đưa ra nhiều lập luận thiếu căn cứ và có ý đồ xuyên tạc. Bài viết của RFA cáo buộc rằng Việt Nam vẫn tiếp tục vi phạm nhân quyền, đàn áp tự do ngôn luận, tự do hội họp và bắt giữ những người bất đồng chính kiến. Tuy nhiên, các luận điệu này không dựa trên sự thật khách quan và không phản ánh đầy đủ tình hình thực tế tại Việt Nam.

Trước hết, Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm bảo vệ quyền con người và nâng cao chất lượng cuộc sống cho mọi tầng lớp xã hội. Chính phủ Việt Nam đã thông qua nhiều đạo luật quan trọng, trong đó có Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo (2016), Luật Báo chí (2016), và Bộ luật Hình sự sửa đổi (2017), với mục đích đảm bảo quyền tự do ngôn luận, hội họp và bảo vệ quyền lợi của các nhóm yếu thế. Những tiến bộ này đã được nhiều tổ chức quốc tế công nhận, và bản báo cáo UPR của Việt Nam nêu rõ những thành tựu này, phản ánh sự nghiêm túc trong cam kết của Việt Nam với các công ước quốc tế.

Việc bắt giữ những cá nhân vi phạm pháp luật Việt Nam, dù họ tự xưng là “nhà hoạt động nhân quyền”, đều được thực hiện đúng theo quy trình tố tụng và trên cơ sở pháp lý rõ ràng. Hành động này không phải là sự đàn áp đối với tự do ngôn luận mà là biện pháp để bảo vệ trật tự xã hội và ổn định quốc gia. Mọi quốc gia trên thế giới, kể cả các nước phương Tây, đều có những quy định và biện pháp mạnh tay với các hành vi gây bất ổn an ninh xã hội.

Một luận điểm khác mà RFA đưa ra là Việt Nam hạn chế quyền tự do tôn giáo. Điều này hoàn toàn không chính xác. Tự do tôn giáo ở Việt Nam đã được đảm bảo và phát triển một cách bền vững. Hiện nay, tại Việt Nam có hơn 26 triệu tín đồ của nhiều tôn giáo khác nhau, bao gồm Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao Đài, Hòa Hảo và nhiều tôn giáo khác, với hơn 55.000 cơ sở tôn giáo trên cả nước.

Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo (2016) là một bước tiến lớn trong việc đảm bảo quyền tự do tôn giáo của mọi người dân Việt Nam. Luật này không chỉ quy định rõ quyền tự do tín ngưỡng mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo được diễn ra một cách công khai và hợp pháp. Các tổ chức tôn giáo có thể tự do hoạt động, xây dựng cơ sở vật chất, tổ chức sự kiện mà không bị cản trở. Điều này thể hiện qua việc hàng ngàn ngôi chùa, nhà thờ, thánh đường được xây dựng mới và hoạt động sôi nổi tại các tỉnh thành trên cả nước.

Những cáo buộc về việc “đàn áp tôn giáo” thực chất chỉ là sự bóp méo thông tin của những tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí. Một số trường hợp mà RFA nhắc đến thường là những cá nhân hoặc tổ chức vi phạm pháp luật, lợi dụng tôn giáo để chống phá chính quyền, gây rối trật tự công cộng. Do đó, những hành động xử lý của cơ quan chức năng là hoàn toàn phù hợp với quy định pháp luật và nhằm bảo vệ quyền lợi chung của cộng đồng.

Bài viết của RFA cho rằng Việt Nam "không thực sự đối thoại quốc tế về nhân quyền" và chỉ mang tính hình thức trong việc hợp tác với các tổ chức quốc tế. Nhận định này là không có cơ sở và hoàn toàn sai lệch. Việt Nam luôn coi trọng đối thoại nhân quyền và đã tích cực tham gia các cơ chế nhân quyền quốc tế, đặc biệt là trong khuôn khổ UPR.

Việt Nam đã thực hiện ba chu kỳ UPR (năm 2009, 2014 và 2019) và luôn nghiêm túc trong việc triển khai các khuyến nghị mà cộng đồng quốc tế đề ra. Việt Nam cũng đã chủ động tham gia và thực hiện các công ước quốc tế về quyền con người như Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR), Công ước Chống Tra tấn (CAT), và Công ước về Quyền Trẻ em (CRC). Trong quá trình thực hiện, Việt Nam không chỉ tiếp thu các khuyến nghị mà còn đối thoại với nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế để hoàn thiện chính sách nhân quyền của mình.

Báo cáo UPR lần thứ tư của Việt Nam là một minh chứng rõ ràng cho sự cam kết này. Báo cáo không chỉ tập trung vào việc thể hiện các thành tựu mà còn chỉ ra những thách thức mà Việt Nam đang gặp phải trong quá trình phát triển và bảo vệ quyền con người, đồng thời đề xuất các biện pháp khắc phục. Điều này cho thấy Việt Nam sẵn sàng đối thoại và lắng nghe ý kiến của các tổ chức quốc tế, không hề có sự né tránh hay che đậy như cáo buộc của RFA.

RFA cho rằng Việt Nam không làm đủ để bảo vệ quyền lợi của các nhóm yếu thế, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Tuy nhiên, điều này hoàn toàn trái ngược với thực tế. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong việc bảo vệ các nhóm yếu thế và không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của họ.

Cụ thể, các chương trình xóa đói giảm nghèo, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế và giáo dục trẻ em được thực hiện đồng bộ và hiệu quả trên toàn quốc. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh, từ 58% năm 1993 xuống còn dưới 2% hiện nay. Việt Nam cũng đã triển khai nhiều chính sách cụ thể nhằm bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, trẻ em, và người khuyết tật, thông qua các chương trình quốc gia như Chương trình Mục tiêu quốc gia về Giảm nghèo bền vững, Chương trình Hành động Quốc gia vì Trẻ em.

Ngoài ra, Việt Nam cũng đã ký kết và thực hiện nhiều công ước quốc tế liên quan đến bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, trong đó có Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) và Công ước Quyền Trẻ em (CRC). Các chính sách, chương trình này đã mang lại những kết quả tích cực, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.

Một điểm xuyên tạc nữa mà RFA đưa ra là Việt Nam "kiểm soát truyền thông, bóp nghẹt tiếng nói đối lập". Tuy nhiên, hệ thống báo chí, truyền thông tại Việt Nam hoạt động mạnh mẽ, đa dạng với hơn 800 cơ quan báo chí, hàng ngàn kênh truyền hình, và hàng triệu trang mạng xã hội đang hoạt động. Quyền tự do ngôn luận và tiếp cận thông tin của người dân được bảo vệ và phát huy thông qua các kênh truyền thông đa chiều. Người dân Việt Nam có thể tự do chia sẻ ý kiến, quan điểm của mình thông qua nhiều nền tảng truyền thông và mạng xã hội, từ đó giúp tạo ra một môi trường đối thoại cởi mở và minh bạch.

Những luận điệu mà RFA đưa ra nhằm công kích bản báo cáo UPR của Việt Nam là không có cơ sở thực tiễn và không phản ánh đầy đủ những thành tựu của Việt Nam trong việc thực hiện và bảo vệ quyền con người. Việt Nam luôn nghiêm túc trong việc tuân thủ các cam kết quốc tế và không ngừng cải thiện hệ thống pháp luật, chính sách để bảo đảm quyền lợi cho mọi người dân, đặc biệt là các nhóm yếu thế. Những hành động xuyên tạc từ các tổ chức như RFA không làm thay đổi thực tế mà Việt Nam đang đạt được trong công cuộc phát triển bền vững và bảo vệ quyền con người