Thứ Ba, 27 tháng 12, 2022

Ảnh hưởng tiêu cực của các tà đạo mới xuất hiện ở Việt Nam

Qua các nghiên cứu đã công bố, ngoài một số ít hiện tượng tôn giáo mới chưa có những ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội, còn lại phần lớn mang tính “mê tín dị đoan”; gây ra nhiều tác động nguy hại cho con người và xã hội.


 

Việc xuất hiện các hiện tượng tôn giáo mới ở vùng dân tộc thiểu số, nhất là
những tổ chức chính trị hay bị các thế lực thù địch lợi dụng chi phối ở Tây Bắc
và Tây Nguyên, ngoài những ảnh hưởng tiêu cực nêu trên, còn gây mất ổn định
về an ninh chính trị, quản lý xã hội, tâm lý và ý thức dân tộc, bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hóa của các dân tộc,...

Bên cạnh đó, việc hình thành các cộng đồng người liên kết theo tôn giáo trong nội bộ từng dân tộc hay liên tộc người ở trong và ngoài nước cũng là một trong những nhân tố gây ra mâu thuẫn cục bộ giữa những người đồng tộc hay khác tộc nhưng không cùng tín ngưỡng với nhau.

Một số hiện tượng tôn giáo mới còn tìm cách chống phá Nhà nước, tổ chức
các hoạt động và tuyên truyền luận điệu phê phán xã hội thực tại. Một số khác có
những hoạt động chống người thi hành công vụ; sáng tác thơ ca, hò vè có nội
dung xuyên tạc những vấn đề quan hệ quốc tế; nói xấu lãnh tụ và chế độ ta;
gây ảnh hưởng xấu tới an ninh chính trị trên địa bàn và đất nước.

Một số hiện tượng tôn giáo mới đã công kích các tín ngưỡng truyền thống
và tôn giáo hợp pháp. Hoạt động này đã làm phức tạp thêm trong nhận thức của
người dân về phân biệt giữa lợi dụng tín ngưỡng để thực hiện các hoạt động “mê
tín dị đoan” bất hợp pháp với sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo theo qui định của
pháp luật.

Có thể nói, hoạt động của các hiện tượng tôn giáo mới ở nước ta trong thời
gian qua đã gây nhiều hậu quả không chỉ cho lợi ích của xã hội, nhân dân, mà còn cho cả sự hoạt động bình thường của những tín ngưỡng, tôn giáo đã được thừa nhận về pháp lý. Các tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống có tư cách pháp nhân đều đã lên tiếng và phản ứng về những nhận thức và hành vi này, nhất là với các “tà đạo” đã vượt ngưỡng của tôn giáo bình thường, mang nặng màu sắc mê tín dị đoan, phi văn hoá do một số người lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để “kinh doanh” với nhiều thủ đoạn tinh vi.

Các hoạt động này đã làm đảo lộn cuộc sống yên bình của người dân ở nhiều địa phương, thậm chí còn gieo nỗi bất hạnh, đau thương về vật chất, tinh thần, tính
mạng và hạnh phúc gia đình cho nhiều người; gây bất ổn về trật tự xã hội, gây khó khăn cho công tác quản lí nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng; làm phương hại đến tính cố kết cộng đồng và khối đoàn kết dân tộc

Thứ Hai, 26 tháng 12, 2022

Nguyên nhân hình thành và phát triển một số tà đạo mới ở Việt Nam

 

Có thể xác định một trong những yếu tố chính để xuất hiện các tà đạo ở nước ta là do tác động của phong trào tôn giáo mới từ bên ngoài vào. Do đó, chỉ cần chính quyền áp dụng một số biện pháp quản lý hành chính thì nhiều tà đạo đã lụi tàn rất nhanh, hoặc số lượng người tin theo rất ít, mặc dù địa bàn có thể trải ra trên diện rộng. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận việc “bùng nổ” của các tà đạo từ sau đổi mới đến nay, nhất là ở miền Bắc và vùng dân tộc thiểu số, là do tác động mạnh mẽ của quá trình thay đổi nhận thức, chính sách và cách thức phát triển kinh tế, quản lý xã hội của các cấp chính quyền ở nước ta. Trong đó, những tác nhân trực tiếp là sự thay đổi về điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa và môi trường sống do tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập và toàn cầu hóa đưa lại, sự thay đổi này đã làm nảy sinh những vấn đề bức xúc của xã hội. Bên cạnh đó, sự tác động mạnh mẽ của trình độ dân trí, phương tiện truyền thông; lợi dụng quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của các tổ chức và cá nhân ở trong và ngoài nước... cũng là những yếu tố quan trọng làm xuất hiện và phát triển các tà đạo ở nước ta.


 

 Nguyên nhân hình thành và phát triển các tà đạo thuộc về 5 loại sau:

Thứ nhất là các yếu tố kinh tế - xã hội. Sự phát triển của nền kinh tế thị
trường ngoài các tác động tích cực quan trọng và to lớn, cũng đã góp phần làm
phân hóa xã hội, nhất là khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn giữa các bộ
phận dân cư ở những vùng miền và dân tộc. Một số người đã tìm kiếm sự che
chở, phù trợ từ tín ngưỡng, tôn giáo để cầu mong sự may mắn từ các lực lượng
siêu nhiên. Khi chuyển từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường, nhiều người
đã nhanh chóng thích nghi với môi trường cạnh tranh và thành công trong điều kiện mới. Cũng có một bộ phận không nhỏ gặp khó khăn, thất bại do những rủi ro, hoạn nạn, ốm đau... gây ra, và trở nên hẫng hụt, không theo kịp với sự chuyển biến của xã hội. Họ tìm sự lý giải do số phận theo cách riêng của mình và mong nhờ sự trợ giúp của thần thánh, vào giá trị tâm linh để có thể vượt qua hoàn cảnh thực tại. Những người này, theo các nhà nghiên cứu, là tầng lớp dễ bị tổn thương về tâm lý trước mọi mthay đổi của xã hội, dễ đi theo những hiện tượng tôn giáo khác nhằm tìm một lối thoát trong suy nghĩ và cảm nhận về thực tại của mình. Sự phát triển của kinh tế thị trường làm cho các tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống ngày càng bộc lộ rõ sự bất lực, tính linh thiêng bị giảm sút. Con người không chỉ tìm kiếm sự
thỏa mãn nhu cầu tâm linh ở đình, chùa, nhà thờ với những nghi lễ rườm rà, bó
buộc so với nếp sinh hoạt của xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mà dễ chấp nhận một dạng tín ngưỡng đơn giản hơn, phù hợp hơn. Đây là lý do làm nảy nở các hiện tượng tôn giáo mới.

Nền kinh tế thị trường gắn liền với xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi
hỏi cường độ lao động cao, kể cả chân tay và trí óc. Do đó, để giảm sự căng thẳng trong xã hội hiện đại, con người thường tìm đến các hiện tượng tôn giáo mới, mong tìm một sự thư giãn, giải trí. Bởi thế, nhiều tà đạothường tổ chức các chuyến thăm quan, giao lưu và hoạt động này thu hút được nhiều người tham gia. Những may rủi trong cuộc sống do thiên tai, sức khỏe gây ra, những bất công và tệ nạn xã hội nảy sinh từ thiếu việc làm, đời sống khó khăn... cũng là lý do để một số người tìm đến các hiện tượng tôn giáo mới.

Đặc biệt, một số người không thể tìm kiếm được việc làm thích hợp trong xã
hội hiện đại, và họ phát hiện ra rằng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo cũng là một “nghề”, nhưng để hoạt động trong các tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống thì
không có đủ khả năng, nên họ tự động lập ra các đạo mới để hành nghề.

Thứ hai là các yếu tố văn hoá tinh thần.

Thách thức của toàn cầu hoá và mặt trái của cơ chế thị trường là những nguyên nhân chính khiến cho nhiều giá trị đạo đức, văn hoá, xã hội truyền thống
bị suy giảm. Trước tình trạng ấy, một bộ phận người dân đã tìm đến các hiện
tượng tôn giáo mới, trong đó có các “tà đạo” mang tính “mê tín dị đoan”, thậm
chí phản văn hiến, phi nhân tính, như: đạo Chân Không ở Hà Tĩnh, đạo Thiên Cơ ở Thái Bình, đạo Thiên Nhiên ở Hải Dương,... Một số người do mù chữ, trình độ học vấn thấp, nhận thức kém nên đã bị mê hoặc dẫn đến những hành động cực đoan gây chết người hay tự sát tập thể. Từ khi xoá bỏ bao cấp trong ngành văn hoá, thể thao thì ở nông thôn, vùng sâu vùng xa, các cơ sở văn hoá ngày càng xuống cấp, thiếu hụt sự quan tâm của chính quyền, đoàn thể và các tổ chức văn hoá. Vì vậy, một bộ phận quần chúng có đời sống tinh thần nghèo nàn, hiểu biết văn hoá hạn chế đã tìm đến những loại hình văn hoá khác, trong đó có các tà đạođể thoả
mãn nhu cầu tâm linh.

Thứ ba là sự phân ly của tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống.

Ở nhiều nước trên thế giới và nước ta, tình trạng phân ly tôn giáo, tín  ngưỡng truyền thống đang diễn ra, phản ánh sự đa dạng và phức tạp của cuộc sống
đương đại. Xu hướng phân ly này như một quy luật trong sự vận động và phát triển của tín ngưỡng, tôn giáo, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội và thiết chế chính trị. Bên cạnh đó, sự phủ nhận các tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống của các hiện tượng tôn giáo mới, thể hiện qua thái độ phê phán gay gắt tôn giáo chủ lưu là bảo thủ, lạc hậu, phiền toái. Sự xuất hiện nhanh chóng các tà đạo ở nước ta trong những năm qua đã phản ánh những bất cập của tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống, nhất là các vấn đề suy thoái tư tưởng, đạo đức lối sống trước tác động của nền kinh tế thị trường, thể hiện qua những biểu hiện thương mại hoá và thế tục hóa tôn giáo, tín ngưỡng làm cho tính linh thiêng bị giảm sút. Vì vậy, con người cũng dễ dàng chấp nhận các hiện tượng tôn giáo mới.

Thứ tư là quá trình mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.

Tà đạo hiện nay cho thấy, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đã tạo điều kiện cho một số đạo lạ xâm nhập từ bên ngoài vào nước ta. Trong điều kiện đó, các thế lực thù địch thường lợi dụng các hiện tượng tôn giáo mới để hoạt động chống phá như: cung cấp tiền cho một số tổ chức tôn giáo mới là Đoàn 18 Phú Thọ, Thanh Hải Vô Thượng Sư, Pháp Luận Công, Tin Lành Đề ga, Tin Lành Vàng chứ.... Một số đạo lạ thông qua việc truyền bá giáo lý, hoạt động thờ cúng có nội dung hoạt động gắn với các vấn đề chính trị khá rõ, như phê phán Đảng, Nhà nước ta và chính quyền địa phương; gây rối trật tự xã hội; vi phạm pháp luật; gây tâm lý
hoang mang trong nhân dân; làm phức tạp và khó khăn cho công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.

Thứ năm là hệ thống chính trị ở địa phương.

Nhiều địa phương chưa nhận thức kịp thời, đầy đủ về bản chất của các hiện
tượng tôn giáo mới, coi đây là “tà đạo” nên chủ yếu tiến hành các biện pháp đấu
tranh xoá bỏ. Một số địa phương lại cho đây là các "tạp giáo" nên coi thường và
chủ quan cho rằng, việc giải quyết không mấy khó khăn. Có nơi gọi là “đạo lạ” hay “tôn giáo mới” nên có sự thận trọng, áp dụng các giải pháp thiếu cương quyết, buông lỏng để mặc cho các đạo lạ hoành hành, vì sợ động chạm đến chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Ở một số nơi, công tác quản lý xã hội còn bị buông lỏng, công tác quần chúng thiếu sâu sát, không phát hiện kịp thời, các đạo lạ xâm nhập, phát triển; khi phát hiện ra thì lúng túng, xử lý không dứt điểm. Chính vì thế, trong
khi các đạo này chưa được giải quyết, thì các đạo khác lại xuất hiện; khi bị đấu tranh xử lý thì co cụm lại, thậm chí từ bỏ, nhưng thực chất vẫn tồn tại âm ỷ chờ thời cơ để phát triển trở lại, lan toả ra các địa bàn khác.

 Có thể nói, các hiện tượng tôn giáo mới hình thành, xâm nhập và phát triển ở nước ta có nguyên nhân là quá trình quản lý xã hội của hệ thống chính trị các cấp, trực tiếp là ở các địa phương, còn hạn chế; sự hiểu biết về tôn giáo, tín ngưỡng nói chung và các hiện tượng tôn giáo mới nói riêng; sự lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng của các thế lực thù địch; việc phân công chức năng, nhiệm vụ quản lý, giải quyết các hiện tượng tôn giáo mới của các cấp, ngành chưa rõ ràng, chủ yếu giao phó cho các cơ quan chức năng thực hiện; đội ngũ cán bộ trực tiếp triển khai công tác này còn thiếu và chưa được đào tạo cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ; đặc biệt là còn thiếu một hành lang pháp lý trong công tác đối với các hiện tượng tôn giáo mới.

Chủ Nhật, 25 tháng 12, 2022

Vẽ chân dung những kẻ "sáng lập" ra một số tà đạo ở Việt Nam

 

Tây Nguyên hiện nay có 17 tà đạo, tà giáo hoạt động, chủ yếu ở một số dân tộc thiểu số tại chỗ và mới di cư đến. Trong số đó, nếu phân chia theo xuất xứ, nguồn gốc thì chủ yếu thuộc 3 nhóm chính sau đây:  

1) Nhóm hình thành tại Tây Nguyên, gồm 10 đạo là: “Tin lành Đề ga”, “Hà Mòn”, Amí Sara” (Hệ Phục Hưng), “Giáo Hội Tin Lành Đấng Christ Việt Nam” (Hiệp Hội Thông Công Tin Lành Các Dân Tộc Việt Nam), “Giáo Hội Liên Hữu Lutheran Việt Nam và Hoa Kỳ”, “Cây Thập Giá Chúa Jesu Krits” (Đạo Thánh Giá), “Bờ Khắp Brâu”, “Ban Cầu Nguyện Phong Trào Phục Hưng Tin Lành”, “Canh Tân Đặc Sủng” và “Pháp Môn Diệu Âm”. 

2) Nhóm từ  các vùng khác trong nước truyền vào gồm 4 đạo: “Tâm Linh Hồ Chí Minh”,
“Ngọc Phật Hồ Chí Minh”, “Việt Nam
Thánh Mẫu” và “Tâm Linh Đạo”. 

3) Nhóm từ nước ngoài truyền vào có 3 đạo là: “Thanh Hải Thượng Sư”, “Pháp
Luận Công” và Thiên Đạo.
 

Trong số 17 tà đạo ở Tây Nguyên, nếu chia theo bản chất và nội dung hoạt động thì có thể phân thành hai nhóm chính như sau: 

1) Nhóm  gắn với Công giáo và Tin Lành: chủ yếu được hình thành tại Tây Nguyên và người tin theo phần lớn là các dân tộc thiểu số tại chỗ. Các hoạt động phần lớn mang yếu tố
chính trị, hoặc ban đầu chỉ sinh hoạt tín ngưỡng thuần túy nặng về “mê tín dị đoan”, nhưng trong quá trình hoạt động có dấu hiệu đã bị các thế lực thù địch lôi kéo, lợi dụng. 

2) Nhóm thứ hai là các hiện tượng tôn giáo mới có bản chất gắn với Phật giáo hoặc tín ngưỡng truyền thống: chủ yếu được truyền từ các vùng khác trong nước và nước ngoài vào Tây Nguyên, người tin theo chủ yếu là dân tộc Kinh. Các hoạt động phần lớn mang nội dung lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng để hoạt động “mê tín, dị đoan”.



 

 Phần lớn những người “sáng lập” ra các tà đạo ở Việt Nam đều có trình độ học vấn thấp, đa số là nông dân và một số là cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước đã nghỉ chế độ hay bị kỷ luật. Những người sáng lập ra các hiện tượng tôn giáo mới là phụ nữ chiếm tỷ lệ khá cao, đây cũng là xu hướng chung của các tôn giáo mới trên thế giới.

Chẳng hạn, Đạo Thày Tỵ (còn gọi là đạo Chân Đất, đạo Chân Không, đạo Sex) xuất hiện năm 1990 do ông Lưu Văn Tỵ sinh năm 1954 khởi xướng. Ông này là công nhân lái máy kéo ở Xí nghiệp Cơ giới nông nghiệp huyện Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh bị buộc thôi việc do thiếu ý thức kỷ luật và đạo đức lối sống. (4) Người khởi xướng Hội Long Hoa Di Lặc là bà Đào Thị Minh, sinh năm 1927 tại thôn Phú Hạ, xã Minh Phú, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Đoàn Phật Ngọc ở Sóc Sơn thành lập năm 1990, người đứng đầu là bà Vũ Thị Nhỡ quê ở Hiền Ninh, Hiền Lương, Sóc Sơn, Hà Nội. Người đứng đầu Đạo Tràng là bà Sửu trú tại ngách 26, ngõ Quán Chính, Gia Lâm, Hà Nội. Đạo Mẹ Trên Trời do bà Vũ Thị Vịnh ở Lương Tài, Bắc Ninh sáng lập. Đạo Chặt Ngón Tay do bà Phạm Thị Hải sinh năm 1936 ở số nhà 270/1E phường An Đông, quận 12, Tp. Hồ Chí Minh sáng lập. Vô Vi Tâm Đạo do bà Phạm Thị Bái quê ở Ý Yên,  Nam Định sáng lập và làm giáo chủ năm 1968, trụ sở chính tại chùa Linh Sơn, 18/234 Trần Quang Diệu, phường 14, Tp. Hồ Chí Minh; năm 1993 bà Bái chết, con gái tên là Dung thay mẹ làm giáo chủ. Đạo Cô Non hay đạo Thiên Cơ do bà Phạm Thị Nối là trạm trưởng trạm y tế xã Thụy Tân, Thái Thụy, Thái Bình sáng lập. Ngọc Phật Hồ Chí Minh do bà Nguyễn Thị Lương sinh năm 1963 ở Hải Phòng sáng lập. Đạo Thiên Nhiên do bà Nguyễn Thị Triệu ở Hải Dương làm giáo chủ. Đạo Thanh Hải Vô Thượng Sư do bà Phạm Thị Trinh quê ở Quảng Ngãi, gốc Công giáo là Việt kiều ở Đài Loan làm giáo chủ, bắt đầu truyền bá vào Việt Nam năm 1991. Đạo Vô Vi do bà Nguyễn Thị Thuận là Việt kiều Mỹ truyền bá vào Việt Nam;...

Hoạt động của các hiện tượng tôn giáo mới đều lộn xộn và trái pháp luật; tổ chức lỏng lẻo, nghi lễ đơn giản và mang tính ước lệ; tiến hành nhiều hoạt động bất hợp pháp do không đăng ký pháp nhân và được các cơ quan chức năng công nhận; các sinh hoạt và nghi lễ thường mang tính ma thuật, siêu nhiên kỳ bí, nhất là trong lĩnh vực sức khoẻ và đoán định tương lai, cầu may mắn.