Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2024

Về “cái gọi là tù nhân lương tâm tôn giáo” trong báo cáo của USCIRF

 


Báo cáo của USCIRF đã đưa ra nhiều nhận định sai lệch về tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam. Đặc biệt, phần nói về “các tù nhân lương tâm tôn giáo” cho rằng các điều kiện đối với số này vẫn rất tồi tệ vào năm 2023 “bất chấp một số vụ thả người nổi bật”, đồng thời lấy dẫn chứng của một loạt những kẻ bị xử lý vì các tội phạm hình sự thông thường và gán ghép chúng vào lý do tôn giáo. Đây là chiêu bài hết sức cũ của không chỉ USCIRF mà còn của các thế lực khác lợi dụng quyền tự do, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để chống phá Việt Nam.

   - USCIRF báo cáo rằng Y Khiu Nie và Y Si Eban bị giam giữ một phần do tham gia Hội nghị Tự do Tôn giáo Đông Nam Á vào tháng 11/2022. Thực tế, chúng bị bắt giữ không phải vì lý do tôn giáo mà vì vi phạm pháp luật quốc gia, bao gồm cả việc tổ chức các hoạt động bất hợp pháp gây rối trật tự công cộng.

   - Báo cáo USCIRF đề cập Nay Y Blang bị bắt giữ vì truyền giáo và tổ chức các hoạt động tôn giáo bất hợp pháp. Tuy nhiên, Nay Y Blang bị bắt giữ vì các hoạt động gây rối trật tự xã hội và vi phạm quy định pháp luật, không liên quan đến việc thực hành tôn giáo của hắn ta.

   - USCIRF nêu rằng Tô Hoàng Chương, Danh Minh Quang và Thạch Cương bị bắt giữ vì vi phạm Điều 331 của Bộ luật Hình sự Việt Nam, cho rằng ly do bắt vì “Ba cá nhân này đã báo cáo việc vi phạm quyền của họ với cộng đồng quốc tế và phổ biến các tài liệu quốc tế về quyền của các dân tộc thiểu số và quyền tự do tôn giáo cho các thành viên cộng đồng để thông báo cho họ về các quyền của họ”. Thực tế Điều 331 là một điều luật hình sự của Bộ luật Hình sự Việt Nam, quy định về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, chứ không phải vì lý do tôn giáo. Theo Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Trà Vinh, từ năm 2020 đến nay, Thạch Cương, Tô Hoàng Chương sử dụng mạng xã hội đăng tải, chia sẻ bài viết, video và livestream nhiều thông tin sai sự thật, giả mạo, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Trước đó, Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Trà Vinh đã 2 lần xử phạt vi phạm hành chính đối với Thạch Cương về hành vi đăng thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 101, Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 3/2/2020 của Chính phủ và yêu cầu gỡ thông tin sai sự thật trên trang cá nhân. Cơ quan chức năng cũng xử phạt vi phạm hành chính 1 lần đối với Tô Hoàng Chương về hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin sai sự thật trên mạng xã hội.Danh Minh Quang sử dụng Facebook để viết, đăng tải, chia sẻ công khai 51 bài viết, hình ảnh với nội dung có tính chất tiêu cực, tuyên truyền xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương.

   - USCIRF cho rằng Nguyễn Hoàng Nam bị bắt chỉ “thường xuyên đăng bài về các nghi lễ tôn giáo và hoạt động từ thiện của Phật giáo Hòa Hảo và Rian Thih bị  kết án vì là “một nhà lãnh đạo tôn giáo “Tin lành Dega”, thực tế số này thường xuyên  đăng bài trên mạng xã hội, gây rối trật tự công cộng và kích động chia rẽ chính sách đoàn kết tôn giáo, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước liên quan thực hành quyền tự do tín ngưỡng của người dân.

Tuy nhiên, không phải không có điểm tích cực trong báo cáo của USCIRF khi mà đã công nhận việc thả tự do cho Nguyễn Bắc Truyển và Lê Đức Đông, ghi nhận rằng điều này cho thấy sự cải thiện trong chính sách của chính phủ Việt Nam về tự do tôn giáo. Thật ra, việc trả tự do cho các đối tượng này là minh chứng cho thấy chính phủ Việt Nam luôn xem xét và giải quyết các trường hợp tù nhân một cách nhân đạo, phù hợp với tình hình sức khỏe và các yếu tố khác.

Nhìn chung, các trường hợp mà USCIRF nêu ra đều đã có bằng chứng rõ ràng về các hành vi phạm tội, các đối tượng đều thừa nhận hành vi của mình trước tòa hoặc trước các cơ quan pháp luật; thế nhưng qua những ngôn từ lạc điệu, USCIRF lại biến hóa chúng thành các vụ việc liên quan đến tôn giáo

Những cáo buộc của USCIRF và thực tế tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam

 


Các cáo buộc của Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) liên quan đến tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam đã được nêu ra với các lập luận rằng chính phủ Việt Nam giám sát, quấy rối, giam giữ và ngăn cản các cộng đồng tôn giáo chưa đăng ký thực hiện quyền tự do tôn giáo của họ. Đây là các cáo buộc thiếu cơ sở và không phản ánh đúng thực tế.

Hiến pháp Việt Nam khẳng định rằng công dân "có thể theo bất kỳ tôn giáo nào hoặc không theo tôn giáo nào" và rằng "tất cả các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật." Điều này cho thấy, về mặt pháp lý, Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2018 của Việt Nam được ban hành nhằm cụ thể hóa các quyền này, cung cấp cơ chế bảo vệ cho các tổ chức tôn giáo, và đảm bảo rằng các hoạt động tôn giáo được diễn ra trong khuôn khổ pháp luật.

Trong năm 2023, chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm thúc đẩy tự do tôn giáo và hỗ trợ các tổ chức tôn giáo. Một ví dụ rõ ràng là việc tổ chức các sự kiện tôn giáo lớn như Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2023 tại Hà Nam với sự tham gia của hàng nghìn Phật tử và khách mời quốc tế, bao gồm nhiều chức sắc tôn giáo và các đại diện từ nhiều quốc gia khác nhau. Sự kiện này không chỉ thể hiện sự tự do tôn giáo mà còn là minh chứng cho sự hỗ trợ tích cực của chính phủ Việt Nam đối với các hoạt động tôn giáo lớn.

USCIRF cho rằng Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2018 hạn chế tự do tôn giáo bằng cách yêu cầu các nhóm tôn giáo phải đăng ký để hoạt động hợp pháp và phải nhận được sự chấp thuận cho tất cả các hoạt động trong năm tới. Tuy nhiên, việc đăng ký không phải là một hình thức kiểm soát mà là một cơ chế bảo vệ cho các tổ chức tôn giáo, giúp họ có tư cách pháp nhân và được hưởng các quyền lợi hợp pháp. Việc này cũng giúp chính phủ quản lý và hỗ trợ các tổ chức tôn giáo một cách hiệu quả hơn.

Một ví dụ cụ thể là việc công nhận 46 tổ chức tôn giáo và 16 tôn giáo vào tháng 8 năm 2023. Việc công nhận này chứng minh rằng chính phủ Việt Nam không chỉ tôn trọng quyền tự do tôn giáo mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo hoạt động và phát triển.

USCIRF cáo buộc rằng việc thực thi Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2018 không đồng đều trên toàn quốc, với các nhóm tôn giáo ở khu vực nông thôn và các tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số, như Tây Nguyên và An Giang, gặp phải nhiều khó khăn hơn. Tuy nhiên, các báo cáo từ các tổ chức tôn giáo độc lập và chính phủ Việt Nam cho thấy rằng các nỗ lực để bảo vệ quyền tự do tôn giáo đã được áp dụng trên toàn quốc, bao gồm cả các khu vực có đông dân tộc thiểu số.

Chính phủ hỗ trợ xây dựng và bảo trì các cơ sở tôn giáo tại các khu vực nông thôn và vùng sâu, vùng xa. Chẳng hạn, vào năm 2023, chính phủ đã hỗ trợ xây dựng nhiều nhà thờ, chùa chiền và các cơ sở tôn giáo khác tại Tây Nguyên, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân địa phương thực hành tôn giáo.

USCIRF cũng chỉ trích rằng các nhóm tôn giáo không nhận được giải thích rõ ràng khi đơn đăng ký của họ bị từ chối hoặc không được chấp nhận. Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam đã có các cơ chế giải trình và giải quyết khiếu nại cho các tổ chức tôn giáo. Ví dụ, Ủy ban Tôn giáo Chính phủ đã thực hiện các cuộc đối thoại với nhiều tổ chức tôn giáo để lắng nghe và giải quyết các vấn đề mà họ gặp phải trong quá trình đăng ký và hoạt động. Trong năm 2023, chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp để thúc đẩy tự do tôn giáo và hỗ trợ các tổ chức tôn giáo. Một trong những biện pháp đó là việc tổ chức các cuộc họp định kỳ với các tổ chức tôn giáo để lắng nghe ý kiến của họ và giải quyết các vấn đề mà họ gặp phải. Chính phủ cũng đã hỗ trợ tài chính và cơ sở vật chất cho nhiều hoạt động tôn giáo, bao gồm cả việc tổ chức các sự kiện tôn giáo lớn như Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2023.

USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam quấy rối và giam giữ các cộng đồng tôn giáo chưa đăng ký. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng chính phủ Việt Nam tôn trọng quyền tự do tôn giáo của tất cả các nhóm tôn giáo, bao gồm cả các nhóm chưa đăng ký. Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp để bảo vệ quyền lợi của các tổ chức tôn giáo này và tạo điều kiện cho họ hoạt động một cách hợp pháp.

Một ví dụ cụ thể là việc chính phủ cho phép nhiều tổ chức tôn giáo chưa đăng ký tổ chức các hoạt động tôn giáo mà không gặp phải sự cản trở nào. Chính phủ cũng đã tổ chức nhiều cuộc đối thoại với các tổ chức này để tìm ra các giải pháp hợp lý và tạo điều kiện cho họ hoạt động một cách hợp pháp.

USCIRF chỉ trích rằng "Sách trắng" về chính sách tôn giáo của Việt Nam không phản ánh đúng thực tế và vi phạm quyền tự do tôn giáo. Tuy nhiên, "Sách trắng" này là một nỗ lực của chính phủ Việt Nam để minh bạch hóa các chính sách tôn giáo và cung cấp thông tin đầy đủ về tình hình tôn giáo trong nước. "Sách trắng" đã được xây dựng dựa trên các cuộc tham vấn với nhiều tổ chức tôn giáo và chuyên gia, và phản ánh sự cam kết của chính phủ trong việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo của người dân.

Những cáo buộc của USCIRF về tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam vẫn mang tính áp đặt và phiến diện, một chiều như bao năm qua!

Thứ Năm, 11 tháng 7, 2024

Các khuyến nghị vô căn cứ của USCIRF

 


USCIRF đã đưa ra sáu khuyến nghị với chính phủ Mỹ liên quan đến tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam. Các khuyến nghị này bao gồm việc đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt (CPC), yêu cầu Việt Nam sửa đổi Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2018, đánh giá các vi phạm theo thỏa thuận năm 2005 giữa Mỹ và Việt Nam, tạo điều kiện cho các cơ quan Liên Hợp Quốc tiếp cận Việt Nam, và giám sát tình trạng của các tù nhân lương tâm tôn giáo. Đây chẳng khác nào một động thái khiêu khích và can thiệp công việc nội bộ Việt Nam của USCIRF

USCIRF khuyến nghị chính phủ Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách CPC dựa trên các cáo buộc vi phạm tự do tôn giáo. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chính quyền Việt Nam đã có những nỗ lực rõ rệt trong việc cải thiện tình hình tự do tôn giáo. Việt Nam đã hợp tác chặt chẽ với nhiều tổ chức tôn giáo và quốc tế để đảm bảo quyền tự do tôn giáo của người dân. Ví dụ, việc bổ nhiệm đại diện tòa thánh Vatican tại Việt Nam là một bước tiến lớn, thể hiện sự tôn trọng và hợp tác giữa chính phủ Việt Nam và cộng đồng Công giáo.

Các sự kiện tôn giáo lớn như Đại lễ Phật đản Vesak Liên Hợp Quốc đã được tổ chức tại Việt Nam với sự tham gia của hàng nghìn Phật tử và khách mời quốc tế. Đây là minh chứng rõ ràng cho sự tự do tôn giáo và sự hỗ trợ của chính phủ Việt Nam đối với các hoạt động tôn giáo.

USCIRF đề xuất Việt Nam cần sửa đổi Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2018 để tuân thủ các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế, bao gồm việc làm cho việc đăng ký chỉ cần thiết để duy trì tư cách pháp nhân. Tuy nhiên, Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2018 của Việt Nam đã được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản về tự do tôn giáo và đã trải qua quá trình tham vấn rộng rãi với các tổ chức tôn giáo và quốc tế. Luật này không ngăn cấm các hoạt động tôn giáo mà chỉ yêu cầu việc đăng ký để đảm bảo quyền lợi và an ninh cho các nhóm tôn giáo.

Việc đăng ký không phải là một hình thức kiểm soát mà là một cơ chế để bảo vệ các tổ chức tôn giáo, giúp họ có tư cách pháp nhân và được hưởng các quyền lợi hợp pháp. Việc này cũng giúp chính phủ quản lý và hỗ trợ các tổ chức tôn giáo một cách hiệu quả hơn.

USCIRF đề xuất đánh giá xem liệu Việt Nam có vi phạm các điều khoản của thỏa thuận năm 2005 về tự do tôn giáo hay không. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, kể từ khi ký kết thỏa thuận này, Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp cải thiện tình hình tự do tôn giáo và đã có nhiều tiến bộ được ghi nhận. Việc hợp tác với Vatican và việc tổ chức nhiều sự kiện tôn giáo lớn đều là minh chứng cho những nỗ lực này.

USCIRF yêu cầu Việt Nam cho phép các cơ quan đặc biệt của Liên Hợp Quốc và nhân viên từ Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc được tiếp cận không giới hạn để giám sát và điều tra các vi phạm về tự do tôn giáo và nhân quyền. Tuy nhiên, Việt Nam đã nhiều lần khẳng định sự sẵn sàng hợp tác với các tổ chức quốc tế, bao gồm cả Liên Hợp Quốc. Việt Nam đã tham gia vào các cuộc kiểm tra định kỳ phổ quát về nhân quyền của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc và đã nhận được nhiều khuyến nghị mà Việt Nam đã chấp thuận và thực hiện.

USCIRF khuyến nghị chính phủ Mỹ chỉ đạo phái đoàn Mỹ tại Việt Nam giám sát và báo cáo tình trạng của các tù nhân lương tâm tôn giáo, và vận động cho sức khỏe cũng như việc phóng thích của họ. Tuy nhiên, chính quyền Việt Nam khẳng định rằng không có ai bị bắt giữ hay giam cầm chỉ vì lý do tôn giáo. Các vụ việc liên quan đến các cá nhân bị bắt giữ đều có liên quan đến các hành vi vi phạm pháp luật, chứ không phải do hoạt động tôn giáo của họ.

USCIRF khuyến nghị Quốc hội Mỹ ủng hộ các nỗ lực lập pháp nhằm cải thiện tự do tôn giáo ở Việt Nam, bao gồm Đạo luật Nhân quyền Việt Nam (H.R. 3172). Tuy nhiên, cần lưu ý rằng các biện pháp lập pháp từ bên ngoài có thể không phản ánh đúng thực tế tình hình tôn giáo tại Việt Nam và có thể gây ra những tác động tiêu cực không mong muốn. Thay vào đó, việc hỗ trợ và khuyến khích các đối thoại xây dựng giữa Việt Nam và các tổ chức tôn giáo quốc tế sẽ mang lại hiệu quả tích cực hơn.

Những khuyến nghị của USCIRF đối với chính phủ Mỹ về tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam thiếu căn cứ và không phản ánh đúng thực tế. Chính phủ Việt Nam đã có những nỗ lực rõ rệt trong việc cải thiện tình hình tự do tôn giáo, và việc đưa ra các cáo buộc thiếu cơ sở có thể gây ra những hiểu lầm và ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ song phương giữa Việt Nam và Mỹ.


 

Thứ Ba, 9 tháng 7, 2024

Phản bác cáo buộc của USCIRF về tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam

 


Trong một loạt các cáo buộc nhằm vào Việt Nam, USCIRF đặc biệt nhấn mạnh vào việc chính quyền Việt Nam can thiệp vào các hoạt động tôn giáo của cộng đồng Công giáo, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo và các nhóm tôn giáo thiểu số khác. USCIRF cho rằng mặc dù đã có thỏa thuận giữa Vatican và Việt Nam về việc bổ nhiệm đại diện tòa thánh tại Việt Nam, nhưng chính quyền vẫn kiểm soát và sách nhiễu các lãnh đạo tôn giáo, đồng thời ép buộc các tôn giáo không đăng ký tham gia vào các tổ chức do nhà nước kiểm soát.

Thứ nhất, quan hệ giữa Việt Nam và Vatican và tình hình của Công giáo

Việc bổ nhiệm đại diện tòa thánh tại Việt Nam là một bước tiến quan trọng trong quan hệ giữa Việt Nam và Vatican, thể hiện sự tôn trọng và hợp tác giữa hai bên. Thỏa thuận này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo của cộng đồng Công giáo tại Việt Nam mà còn cho thấy cam kết của chính quyền Việt Nam trong việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo.

USCIRF cho rằng chính quyền Việt Nam kiểm soát các lãnh đạo Công giáo và sách nhiễu các linh mục, đặc biệt là ở các khu vực dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các hoạt động tôn giáo của cộng đồng Công giáo tại Việt Nam vẫn diễn ra bình thường và không gặp phải sự can thiệp đáng kể từ phía chính quyền.

Ví dụ, trong năm 2023, có hàng trăm sự kiện tôn giáo lớn được tổ chức bởi cộng đồng Công giáo trên khắp cả nước, từ các thánh lễ đến các hoạt động từ thiện và giáo dục. Chính quyền địa phương đã tạo điều kiện và hỗ trợ các sự kiện này, đảm bảo an ninh và trật tự cho người tham gia.

Số liệu thống kê cho thấy số lượng giáo dân Công giáo tại Việt Nam đã tăng đều qua các năm, với khoảng 7 triệu người vào năm 2023, chiếm khoảng 7% dân số cả nước. Các giáo xứ và nhà thờ mới tiếp tục được xây dựng và mở rộng để đáp ứng nhu cầu tôn giáo của người dân.

Thứ hai, vụ việc tại Kon Tum và các linh mục người H'mông

Về vụ việc tại tỉnh Kon Tum và các linh mục người H'mông, các thông tin mà USCIRF đưa ra thiếu sự xác thực và không phản ánh đầy đủ bối cảnh. Theo báo cáo từ các nguồn tin địa phương, sự can thiệp của chính quyền chủ yếu liên quan đến việc đảm bảo tuân thủ các quy định về an ninh và trật tự công cộng, chứ không phải là sự kiểm soát hay sách nhiễu có hệ thống đối với các hoạt động tôn giáo.

Thứ ba, tình hình của các tôn giáo khác: Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo và các nhóm tôn giáo thiểu số

USCIRF cáo buộc chính quyền Việt Nam ép buộc các tôn giáo như Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo tham gia vào các tổ chức do nhà nước kiểm soát và ngăn cản họ thực hành đức tin một cách tự do. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chính quyền Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do tôn giáo và tạo điều kiện cho các hoạt động tôn giáo diễn ra một cách bình thường.

Ví dụ, trong năm 2023, cộng đồng Cao Đài đã tổ chức nhiều sự kiện tôn giáo lớn mà không gặp phải sự cản trở từ phía chính quyền. Số liệu từ Ban Tôn giáo Chính phủ cho thấy có hơn 2.5 triệu tín đồ Cao Đài và hàng trăm đền thờ Cao Đài trên khắp cả nước. Các hoạt động tôn giáo của cộng đồng này được thực hiện một cách công khai và nhận được sự hỗ trợ từ phía chính quyền địa phương.

Tương tự, cộng đồng Phật giáo Hòa Hảo cũng tổ chức nhiều hoạt động tôn giáo và từ thiện mà không gặp phải sự can thiệp đáng kể. Chính quyền đã hỗ trợ các hoạt động bảo tồn và phát triển văn hóa tôn giáo của cộng đồng này, đảm bảo họ có điều kiện tốt nhất để thực hành đức tin.

Thứ tư, vụ việc tại An Giang mà USCIRF đề cập liên quan đến việc cấm cản tổ chức lễ kỷ niệm ngày sinh của người sáng lập Phật giáo Hòa Hảo. Tuy nhiên, theo báo cáo từ các nguồn tin địa phương, lý do chính quyền đưa ra quyết định này là để đảm bảo an ninh và trật tự công cộng trong bối cảnh có những nguy cơ an ninh tiềm tàng. Không có bằng chứng cho thấy quyết định này nhằm mục đích hạn chế quyền tự do tôn giáo của cộng đồng Phật giáo Hòa Hảo.

Thứ năm, tình hình của các nhóm tôn giáo khác: Pháp Luân Công và Hội Thánh Đức Chúa Trời

USCIRF cáo buộc chính quyền Việt Nam ngăn cản các hoạt động của nhóm Pháp Luân Công. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận rằng, các hoạt động của Pháp Luân Công tại Việt Nam đã gây ra nhiều tranh cãi và có những dấu hiệu vi phạm pháp luật. Chính quyền Việt Nam chỉ can thiệp khi có các bằng chứng cụ thể về các hoạt động vi phạm pháp luật hoặc gây mất trật tự công cộng. Năm 2023, có một số vụ việc liên quan đến việc phát tán tài liệu Pháp Luân Công không được phép và tổ chức các buổi tụ tập trái phép. Chính quyền đã xử lý các vụ việc này theo đúng quy định pháp luật, đảm bảo quyền lợi và an ninh cho người dân.

Về Hội Thánh Đức Chúa Trời, USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam ép buộc các thành viên từ bỏ đức tin của mình. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các hoạt động của Hội Thánh Đức Chúa Trời tại Việt Nam thường gây ra nhiều vấn đề về an ninh và trật tự công cộng. Chính quyền chỉ can thiệp khi có bằng chứng cụ thể về các hoạt động vi phạm pháp luật hoặc gây mất trật tự. Năm 2023, một số thành viên của Hội Thánh Đức Chúa Trời đã bị bắt giữ và xử lý do có hành vi vi phạm pháp luật, như tuyên truyền mê tín dị đoan, lừa đảo và kích động chống đối chính quyền. Việc xử lý các trường hợp này hoàn toàn dựa trên cơ sở pháp luật và nhằm bảo vệ quyền lợi của người dân.

Những cáo buộc của USCIRF về việc chính quyền Việt Nam can thiệp và kiểm soát các hoạt động tôn giáo, sách nhiễu các lãnh đạo tôn giáo và ép buộc các nhóm tôn giáo tham gia vào các tổ chức do nhà nước kiểm soát là thiếu căn cứ và không phản ánh đúng thực tế. Thực tế cho thấy, chính quyền Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo của mọi người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo diễn ra một cách bình thường. Các ví dụ và số liệu cụ thể trong năm 2023 cho thấy cộng đồng Công giáo, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo và các nhóm tôn giáo khác tại Việt Nam vẫn hoạt động một cách tự do và không gặp phải sự can thiệp đáng kể từ phía chính quyền.

Thứ Bảy, 6 tháng 7, 2024

Tự do báo chí ở Việt Nam và Mỹ

 


Báo cáo cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam thường xuyên thẩm vấn, phạt tiền và truy tố các cá nhân vì phát ngôn bị coi là không chấp nhận được, và cấm mọi chỉ trích công khai đối với Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách nhà nước. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng Việt Nam có hệ thống pháp luật rõ ràng để xử lý các hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận nhằm mục đích xuyên tạc, bôi nhọ, hoặc gây rối trật tự công cộng. Các biện pháp này nhằm bảo vệ lợi ích công cộng và an ninh quốc gia.

Ví dụ, trường hợp Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (tên gọi khác là Mẹ Nấm) đã bị xử lý theo pháp luật vì các hoạt động phát tán thông tin sai lệch, kích động bạo lực và chống đối chính quyền. Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do ngôn luận của công dân, và những người vi phạm pháp luật đều được đảm bảo quyền được xét xử công bằng.

Báo cáo cáo buộc rằng Chính phủ Việt Nam gây ảnh hưởng đến các triển lãm, âm nhạc và các hoạt động văn hóa khác bằng cách yêu cầu nhiều giấy phép, cũng như kiểm duyệt hoặc hạn chế nội dung đối với thành viên báo chí và các phương tiện truyền thông khác. Thực tế, việc quản lý và cấp phép cho các hoạt động văn hóa, nghệ thuật là điều bình thường ở mọi quốc gia nhằm đảm bảo tính hợp pháp và phù hợp với quy định của pháp luật. Điều này không đồng nghĩa với việc hạn chế quyền tự do sáng tạo hay tự do ngôn luận.

Như đã nói, Việt Nam có một nền báo chí đa dạng và phát triển, với hàng trăm tờ báo, tạp chí và kênh truyền hình, cả nhà nước và tư nhân, hoạt động sôi nổi. Các phương tiện truyền thông này thường xuyên đưa tin, phản ánh nhiều góc độ khác nhau về các vấn đề xã hội, chính trị, kinh tế và văn hóa. Ví dụ, báo chí Việt Nam đã có nhiều bài viết phê bình, phản ánh các vấn đề nóng như tham nhũng, ô nhiễm môi trường và các vụ án lớn. Điều này cho thấy, truyền thông Việt Nam có quyền tự do phản ánh các vấn đề xã hội một cách đa chiều và công bằng.

Trong khi đó, các nước phương Tây, nhất là Mỹ vẫn luôn dùng cụm từ “tự do báo chí” để săm soi, chỉ trích, lên án những nước không phải là đồng minh đã vi phạm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận và từ đó họ chụp cho những quốc gia này cái mũ vi phạm dân chủ, nhân quyền... Dù lớn tiếng rêu rao như thế nhưng sự thật họ đã và đang cố tình tảng lờ một thực tế là ngay cả ở Mỹ cũng như phương Tây, nơi vẫn được gọi là “thế giới tự do”, tự do ngôn luận và tự do báo chí thì cũng chỉ là điều không tưởng. Khi đánh giá thực chất tự do ngôn luận, tự do báo chí ở phương Tây, ông Paul Sethe là nhà báo danh tiếng, đồng thời là nhà văn và nhà nghiên cứu khoa học xã hội ở Cộng hòa Liên bang Đức đã khẳng định: “Tự do báo chí ở các nước phương Tây là tự do phổ biến những ý kiến riêng của 200 người giàu có”.

Chưa hết, tự do báo chí ở Mỹ còn là việc các cơ quan chức năng đại diện cho giới tài phiệt ở quốc gia này có quyền tự do xâm hại đến quyền và lợi ích của người khác. Bằng chứng là vào những ngày đầu tháng 6 -2013, làng báo quốc tế xôn xao trước sự việc hãng AP kiện Bộ Tư pháp Mỹ vì đã nghe lén điện thoại và kiểm tra email của 20 phóng viên. Theo thông tin của AP, Bộ Tư pháp Mỹ đã “bí mật thu các cuộc điện thoại ở hơn 20 đường dây được phóng viên và văn phòng AP đăng ký, bao gồm cả điện thoại di động và cố định”. Phát biểu về sự việc này trên tờ Yahoo News, nhà sản xuất phim tài liệu Mỹ Robert Greenwald đã nhận định: “Đây là kết quả của các chính sách mà chính quyền Mỹ đang áp dụng. Điều này đã trở thành hệ thống. Đây không phải chỉ xảy ra một lần, không phải là một vụ tai nạn. Đây chính là một nỗ lực để khiến những nhà cung cấp thông tin phải giữ im lặng. Đây quả là một điều đáng tiếc”.

Trước đó, vào ngày 17-1-2005, ngay trước khi diễn ra lễ nhậm chức nhiệm kỳ thứ hai của mình, Tổng thống Mỹ George W.Bush đã nhận được một “món quà” từ các quan chức báo chí. Kênh truyền hình lớn nhất nước Mỹ CBS đã quyết định sa thải 4 phóng viên dám cả gan xâm phạm đến quá khứ “vinh quang” trong quân ngũ của người đứng đầu Nhà Trắng. Lý do là ngày 8-9-2004, kênh truyền hình này đã phát một đoạn phim phóng sự trong chương trình “60 phút”, nói về thời gian phục vụ của ông George W.Bush tại căn cứ không quân thuộc lực lượng vệ binh quốc gia ở Texas hồi đầu những năm 70 của thế kỷ trước. Nội dung trong đó cho biết, Bush thường xuyên lẩn trốn việc tập luyện cũng như những đợt kiểm tra y tế bắt buộc. Ngoài ra, còn có một quan chức thân cận nào đó với Bush - cha đã gây áp lực với Killian để ông ta làm ngơ trước những vi phạm của Bush - con. Điều đáng nói ở đây là toàn bộ nội dung nêu trên được trích dẫn chính xác từ bản ghi chép công việc của Trung tá Jerry Killian, cựu chỉ huy của ông W.Bush ngày đó.

Tồi tệ hơn, với tư cách là nước đặt trụ sở của Liên hợp quốc (LHQ), lẽ ra Mỹ có nghĩa vụ không cản trở công việc của các nhà ngoại giao và quan chức nước ngoài hoặc công việc của các nhà báo đưa tin về hoạt động của LHQ, bất kể hoàn cảnh nào. Thế nhưng Washington đã từ chối cấp thị thực nhập cảnh cho các nhà báo Nga tháp tùng Ngoại trưởng Nga Serguei Lavrov đến trụ sở LHQ. Mặc dù trước đó, Bộ Ngoại giao Nga đã liên hệ nhiều lần và được Bộ Ngoại giao Mỹ đảm bảo rằng thị thực “sắp được cấp”. Tuy nhiên, đây là một lời nói dối trắng trợn. Vì thế, ngày 23-4-2023, trước khi lên đường đến New York để đảm nhiệm vai trò Chủ tịch luân phiên tại Hội đồng Bảo an LHQ, ông Serguei Lavrov đã chỉ trích Hoa Kỳ có một quyết định “hèn hạ”. Đồng thời, Ngoại trưởng Nga còn mỉa mai rằng, Hoa Kỳ đã cho thế giới thấy rõ giá trị của những tuyên bố của họ về tự do ngôn luận, tự do báo chí. 

Trơ trẽn và lố bịch hơn, nhân danh “tự do báo chí” kiểu Mỹ và phương Tây, họ tung ra các bài viết, clip, ảnh và đủ thứ tư liệu ngụy tạo, bịa đặt cùng những bình luận theo kiểu bất chấp sự thật nhằm gieo rắc hoang mang ở các quốc gia không phải là đồng minh. Đã vậy, họ còn ra sức tung hô, cổ xúy, ca ngợi những kẻ mà họ gán cho những mỹ từ như “nhà báo tự do”, “nhà đấu tranh dân chủ”, “nhà bất đồng chính kiến” mà thực ra đó là những người vi phạm pháp luật, đã bị pháp luật Việt Nam xử lý. Trong khi đó, Bộ luật United States Code năm 1953 của Mỹ đã bổ sung điều khoản cho phép xét xử việc đăng tải các tài liệu mà chính phủ cho là bí mật. Thế nhưng trong đạo luật này không hề có quy định như thế nào là bí mật. Như vậy, một khi thông tin bị chính phủ phán cho là bí mật thì chắc chắn nhà báo sẽ phải hầu tòa.

Từ những sự kiện nêu trên mọi người có thể dễ dàng thấy, trong khi chính quyền Mỹ cao giọng rao giảng về chuyện bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận thì chính các nhà cầm quyền Mỹ lại đang sử dụng quyền lực chính trị và sức mạnh của đồng USD để thao túng báo chí, phục vụ lợi ích của mình. Thật lố bịch và trơ trẽn, các thế lực thù địch còn lớn tiếng quy chụp rằng, ở Việt Nam không cho phép báo chí tư nhân là không có tự do ngôn luận, không có tự do báo chí. Thâm độc hơn, chúng còn lợi dụng các vụ, việc một số nhà báo có hành vi vi phạm pháp luật và đạo đức người làm báo bị xử lý để cho rằng, tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam bị hạn chế, thậm chí bị đàn áp… Từ đó, họ đòi Việt Nam phải tổ chức, quản lý báo chí theo “mô hình báo chí phương Tây”, đòi “tư nhân hóa báo chí” để biến báo chí ở Việt Nam thành công cụ phục vụ mưu đồ của họ.

Thứ Sáu, 5 tháng 7, 2024

Sự trái ngược về Quyền con người của Việt Nam và trong báo cáo nhân quyền 2023 của Mỹ

 


Phần 1 của báo cáo này đã đưa ra nhiều cáo buộc xuyên tạc về việc tôn trọng sự toàn vẹn của con người ở Việt Nam. Các luận điệu này bao gồm việc vu cáo Việt Nam thực hiện các hành động tước đoạt sinh mạng tùy tiện, giết người bất hợp pháp vì động cơ chính trị, cũng như tra tấn và đối xử tàn nhẫn với người bị giam giữ. Tuy nhiên, những cáo buộc này thiếu căn cứ và không phản ánh đúng thực trạng tại Việt Nam. Bài viết này sẽ phản bác lại các luận điệu đó bằng những dẫn chứng và sự thật cụ thể, nhằm làm sáng tỏ tình hình nhân quyền thực sự tại Việt Nam.

Báo cáo của Mỹ cho rằng chính phủ Việt Nam thực hiện các vụ giết người tùy tiện hoặc bất hợp pháp. Một ví dụ được nêu ra là cái chết của mục sư Đinh Diệm tại Trung tâm Giam giữ số 6 ở Nghệ An, với cáo buộc rằng ông Diệm chết do "vấn đề y tế" nhưng gia đình cho rằng có vết bầm tím trên cơ thể ông. Tuy nhiên, việc xác định nguyên nhân tử vong luôn được thực hiện qua các quy trình pháp y và điều tra khách quan. Trong trường hợp ông Đinh Diệm, các kết luận về nguyên nhân tử vong đã được đưa ra dựa trên các bằng chứng y khoa, không có căn cứ cho rằng có sự can thiệp hay bạo hành từ phía nhà nước. Hơn nữa, Việt Nam luôn tạo điều kiện cho gia đình và luật sư của người bị giam giữ được tham gia vào quá trình điều tra để đảm bảo tính minh bạch và công bằng.

Báo cáo cũng cáo buộc Việt Nam tra tấn và đối xử tàn nhẫn với người bị giam giữ. Tuy nhiên, các vụ việc bị cáo buộc đều được điều tra và xử lý nghiêm túc. Ví dụ, trường hợp Lê Anh Hùng bị cáo buộc bị nhân viên y tế và bệnh nhân đánh đập tại Bệnh viện Tâm thần Quốc gia số 1 ở Hà Nội từ năm 2019-2023 đã được điều tra. Nếu có chứng cứ rõ ràng, những người vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Việc này cho thấy Việt Nam không dung túng cho bất kỳ hành vi vi phạm nhân quyền nào từ phía các cơ quan công quyền. Một ví dụ khác là vụ việc của Trần Huỳnh Duy Thức, người bị cáo buộc bị tra tấn trong thời gian giam giữ. Tuy nhiên, các cơ quan chức năng đã tiến hành điều tra và không phát hiện bằng chứng cụ thể về việc tra tấn hay đối xử tàn nhẫn.

Báo cáo cũng đề cập đến việc Việt Nam giam giữ tùy tiện và kéo dài thời gian giam giữ trước khi xét xử để trừng phạt hoặc gây áp lực buộc thú nhận tội lỗi. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng việc giam giữ trước khi xét xử tại Việt Nam được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người bị giam giữ. Ví dụ, trong vụ án của Nguyễn Văn Đài và Lê Thu Hà, cả hai đều được phép gặp luật sư và gia đình trong suốt quá trình điều tra và xét xử, đảm bảo rằng quyền lợi của họ không bị xâm phạm. Các quy định này nhằm đảm bảo quá trình điều tra, xét xử được thực hiện công bằng và minh bạch, bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự xã hội.

Báo cáo nói rằng nhà chức trách đôi khi từ chối cho gia đình thăm viếng những người bị bắt về tội danh an ninh quốc gia hoặc trong các vụ án có động cơ chính trị không liên quan đến tội danh an ninh quốc gia!? Thế thì tại sao hàng tháng, vợ, mẹ những người này đều đặn vẫn cập nhật trên facebook quá trình thăm nom, gửi đồ cho người nhà ở trong trại vậy? Cần lấy ví dụ à: Trịnh Thị Nhung thăm chồng là Bùi Văn Thuận, Phạm Thị Lân thăm chồng là Nguyễn Tường Thụy, Trịnh Bá Khiêm thậm chí còn đi học lái xe để lấy bằng và đã mua xe ô tô để tiện cho việc thăm nom...

Cuối cùng, cần khẳng định rằng Việt Nam luôn tạo điều kiện cho các tổ chức quốc tế giám sát tình hình nhân quyền. Việt Nam đã và đang hợp tác chặt chẽ với các cơ quan của Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế về nhân quyền để cải thiện và bảo vệ quyền con người. Ví dụ, Việt Nam đã tham gia vào các cuộc đối thoại nhân quyền với Liên minh Châu Âu (EU) và Mỹ, đồng thời mời các tổ chức quốc tế đến thăm và làm việc tại Việt Nam để có cái nhìn khách quan hơn về tình hình nhân quyền. Những nỗ lực này cho thấy cam kết của Việt Nam trong việc đảm bảo và nâng cao quyền con người.

Một ví dụ điển hình về sự hợp tác này là việc Việt Nam tham gia vào Cơ chế Rà soát Định kỳ Phổ quát (UPR) của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc. Trong khuôn khổ UPR, Việt Nam đã nhận được nhiều khuyến nghị từ các quốc gia thành viên và cam kết thực hiện các biện pháp cải thiện tình hình nhân quyền trong nước. Điều này cho thấy Việt Nam luôn lắng nghe và sẵn sàng cải thiện dựa trên các khuyến nghị mang tính xây dựng từ cộng đồng quốc tế.

Hiến pháp và pháp luật Việt Nam nghiêm cấm mọi hành vi tra tấn, bạo lực và đối xử vô nhân đạo đối với người bị giam giữ. Điều 20 của Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo vệ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.” Điều này cho thấy Việt Nam rất coi trọng quyền con người và sự toàn vẹn của con người. Ngoài ra, các quy định pháp luật khác như Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự cũng có những điều khoản rõ ràng về việc cấm tra tấn và đối xử tàn nhẫn.

Tóm lại, các luận điệu xuyên tạc trong Phần 1 của Báo cáo Nhân quyền Việt Nam 2023 của Mỹ là không có cơ sở. Việt Nam luôn cam kết bảo vệ quyền con người, tôn trọng sự toàn vẹn của con người và sẵn sàng hợp tác với cộng đồng quốc tế để thúc đẩy nhân quyền. Những cáo buộc trong báo cáo chỉ là những nhận định thiếu khách quan và không phản ánh đúng thực tế tình hình tại Việt Nam.


 

Không có cái gọi là “quyền” tự do tôn giáo tuyệt đối, đứng trên và ngoài pháp luật!

 


Sau khi Bộ Ngoại giao Mỹ công bố Báo cáo Tự do tôn giáo toàn cầu 2023, trong đó chứa nhiều thông tin thiếu khách quan, sai lệch về tự do tôn giáo ở Việt Nam, các trang báo nước ngoài và phản động được dịp tung hứng, giật tít phụ họa như thể đây là “bằng chứng” chứng minh Việt Nam không có tự do tôn giáo vậy. Chẳng hạn như “Tự do theo đinh hướng thì đâu phải là tự do!” đăng ngày 24/6/2024 trên trang thongluan-rdp.org, “Phúc trình về Tự do tôn giáo Quốc tế 2023 của Hoa Kỳ: Việt Nam vẫn vi phạm, giới hạn quyền này” ngày 27/6/2024 trên VOA,… vừa bẻ cong sự thật tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do báo chí ở Việt Nam, vừa thực hiện âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ.



Trước hết, chính pháp luật quốc tế khẳng định, không có cái gọi là “quyền” tự do tuyệt đối!

Khoản 3, Điều 18, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc (năm 1966) đã ghi rõ: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi những quy định pháp luật và các giới hạn này là cần thiết cho việc bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng hoặc những quyền và tự do cơ bản của người khác” và Điều 9, Công ước châu Âu về bảo vệ nhân quyền và các quyền tự do cơ bản cũng khẳng định: “Quyền tự do thể hiện tôn giáo, tín ngưỡng của một người chỉ bị luật pháp giới hạn nếu điều đó là cần thiết trong một xã hội dân chủ, phục vụ an ninh công cộng, bảo vệ trật tự trị an, sức khỏe, chuẩn mực đạo đức chung hoặc các quyền và sự tự do của người khác” …

Thứ hai, Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam luôn tôn trọng và đảm bảo quyền con người cũng như quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, ngôn luận… của người dân. Cụ thể, nội dung Điều 24, Hiến pháp năm 2013 và nội dung các Điều của Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016… chính là minh chứng sinh động. Hơn nữa, sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” ngày 9/3/2023 đã công bố: “Việt Nam có 26,5 triệu tín đồ tôn giáo, chiếm 27% dân số cả nước, với hơn 54.000 chức sắc, 135.000 chức việc và 29.658 cơ sở thờ tự. Cụ thể, tính đến năm 2021, Phật giáo chiếm số lượng tín đồ đông nhất với trên 14 triệu tín đồ và 18.544 cơ sở thờ tự. Kế đến là Công giáo với trên 7 triệu tín đồ và 7.771 cơ sở thờ tự. Lần lượt xếp thứ ba và thứ tư về số lượng tín đồ là đạo Tin Lành và đạo Cao Đài. Hiện nay, Nhà nước Việt Nam đã công nhận 36 tổ chức tôn giáo thuộc 16 tôn giáo khác nhau”… Trong cả nhân thức và hành động của Việt Nam thì các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo và người dân được hoàn toàn tự do lựa chọn tôn giáo, tín ngưỡng mà mình muốn.

Thứ ba, việc một số tổ chức phản động núp danh nghĩa tôn giáo để lôi kéo, tập hợp lực lượng chống chế độ, kích động tư tưởng dân tộc cực đoan, bản chất hoạt động trục lợi, gây rối, vi phạm pháp luật, ảnh hưởng an ninh trật tự, an toàn xã hội thì chính là vi phạm pháp luật, chứ không phải Việt Nam “hạn chế tự do tôn giáo”.

Từ lâu người dân Việt Nam đều thấy rõ thực tế, việc một số cá nhân và các tổ chức thù địch, phản động luôn tìm cách bịa đặt, xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam như là “một chiêu bài trong chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế” là sự thật. Thực tế, ở Việt Nam quyền con người, quyền công dân ngày càng được bảo đảm và Đảng, Nhà nước Việt Nam không “kìm kẹp tự do ngôn luận”, không “đàn áp dân chủ”, cũng không “ngồi lên Hiến pháp”, mà chỉ xử lý theo đúng Hiến pháp và pháp luật những đối tượng phản động có hành vi vi phạm pháp luật, gây mất ổn định chính trị, thực hiện âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.