Thứ Hai, 8 tháng 5, 2023

USCIRF và những đánh giá hòng bôi đen tự do tín ngưỡng ở Việt Nam


Mỗi năm  Bộ Ngoại giao Mỹ, Ủy hội  Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) đều có Báo cáo về tự do tôn giáo quốc tế, thường xuyên có những nhận định thiếu khách quan, sai lệch về tình hình tự do tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam; luận điệu quen thuộc của USCIRF cho rằng Việt Nam vi phạm các tiêu chuẩn quốc tế, cản trở việc thực hành tôn giáo của phạm nhân, nêu quan ngại về một số trường hợp “tù nhân lương tâm”, “tù nhân tôn giáo”. Họ luôn cho mình quyền phán xét quốc gia khác mà không cần biết thực tế quốc gia đó như thế nào, cũng không cần quan tâm đến những vấn đề về phân biệt chủng tộc, phân hóa giai cấp, tôn giáo… còn tồn tại của chính nước Mỹ.

Đầu tháng 5 vừa rồi, USCIRF lại tiếp tục khuyến nghị BNG Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách quốc gia cần quan tâm đặc biệt (CPC) vì “vi phạm tự do tôn giáo” “nghiêm trọng, có hệ thống và đang tiếp diễn”. Đáng quan ngại hơn, một ủy viên của USCIRF (Frederick Davie) còn phát biểu: “Trong năm 2022, nhà cầm quyền ở Việt Nam đã tăng cường kiểm soát và đàn áp các nhóm tôn giáo, bao gồm người Thượng và người Hmông theo đạo Tin lành, tín đồ Cao Đài Chân truyền, Phật giáo Hòa Hảo độc lập và Giáo hội Phật giáo Thống nhất, đạo Dương Văn Mình và cả Pháp Luân Công”…


 

Được dịp “tát nước theo mưa” hoặc “làm mưa rồi tát nước”, các đối tượng thù địch, chống đối, không có thiện chí với ta ở trong và ngoài nước phát tán những nhận định sai lệch, xuyên tạc thực tế đó; và vẫn tiếp tục tận dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết tôn giáo, đoàn kết toàn dân tộc. Thủ đoạn thường xuyên của chúng là lợi dụng một số thiếu sót, sơ hở trong quản lý nhà nước, trong quá trình thực hiện chính sách, một số chức sắc có tư tưởng cực đoan bị lợi dụng lồng ghép quan điểm sai trái, kích động gây ra “điểm nóng” tôn giáo, từ đó vu cáo Nhà nước ta đàn áp tôn giáo, ngăn cấm xây sửa cơ sở thờ tự, cản trở hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo…

Việc USCIRF, BNG Mỹ đưa ra báo cáo, có những nhận định sai lệch, thiếu khách quan về tình hình tôn giáo, tín ngưỡng, đưa Việt Nam vào danh sách CPC vì “đàn áp tự do tôn giáo” “một cách nghiêm trọng” là sự xuyên tạc, bôi đen thực tế, phủ nhận thành tựu tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam.

Thực tế là, Việt Nam đã và đang đạt được thành tựu quan trọng về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Những thành tựu và thực tế đó được cộng đồng quốc tế ghi nhận, khẳng định nỗ lực của Việt Nam trong xây dựng chính sách pháp luật, phù hợp với công ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Ở Việt Nam, các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, Nhà nước không phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo. Ở Việt Nam không có ai là “tù nhân lương tâm”, “tù nhân tôn giáo”, chỉ có người vi phạm pháp luật, lợi dụng quyền tự do dân chủ để chống phá, vi phạm pháp luật thì bị xử lý theo pháp luật.

Là quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, có truyền thống lịch sử văn hóa lâu đời, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam không ngừng được hoàn thiện, ghi nhận đầy đủ quyền của mọi công dân được tự do lựa chọn theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo nào. Thống kê đến nay, trên cả nước có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký hoạt động, với trên 26,5 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số cả nước, hơn 54 nghìn chức sắc, trên 135 nghìn chức việc và gần 30 nghìn cơ sở thờ tự. Nhiều tôn giáo có đông tín đồ như Phật giáo có trên 14 triệu tín đồ, Công giáo 7 triệu, Phật giáo Hòa Hảo 1,5 triệu, Tin lành hơn 1,2 triệu; Cao Đài trên 1,1 triệu… Hệ thống tín ngưỡng cũng vô cùng phong phú, với 50.703 cơ sở tín ngưỡng, trong đó khoảng 3.000 di tích gắn với cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, một số được UNESCO ghi danh là di sản thế giới.

Nhà nước bảo đảm và tạo điều kiện cho các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; chúng ta có thể thấy rõ nhất là ở những dịp lễ trọng của các tôn giáo như lễ Phật đản, lễ Vu lan của Phật giáo; Lễ Giáng sinh, lễ Phục sinh của Công giáo và Tin lành; lễ hội Katê của đồng bào Chăm; tháng chay Ramadan của người Hồi giáo… được tổ chức long trọng với đông đảo tín đồ tham gia.

Các hoạt động xuất bản kinh sách, xuất bản phẩm về tôn giáo, tín ngưỡng; sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm tín ngưỡng, tôn giáo, đồ dùng tôn giáo được tạo điều kiện và bảo đảm phục vụ yêu cầu hoạt động các tôn giáo, tín ngưỡng. Thống kê trong hơn 4 năm qua, Nhà xuất bản Tôn giáo đã xuất bản 2.527 ấn phẩm với 8.506.240 bản in, nhiều ấn phẩm được dịch ra tiếng Anh, Pháp, tiếng dân tộc. Hiện nay có khoảng 15 tờ báo và tạp chí của các tổ chức tôn giáo, trong đó có nhiều tờ báo, tạp chí có uy tín; hầu hết các tổ chức tôn giáo đều có website truyền bá tôn giáo của mình. Các hoạt động tôn giáo có yếu tố nước ngoài cũng được Nhà nước ta quan tâm, tạo điều kiện, với hàng trăm lượt xuất nhập cảnh tham dự các hoạt động tôn giáo, khóa đào tạo về tôn giáo ở nước ngoài và cá nhân tôn giáo nước ngoài vào Việt Nam hoạt động hàng năm…

Đặc biệt, với cơ cấu trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các tổ chức tôn giáo luôn có đại biểu tham gia vào đời sống chính trị xã hội. Hiện nay, có 05 đại biểu Quốc hội khóa XV là chức sắc tôn giáo; 88 chức sắc, chức việc và 35 tín đồ các tôn giáo là đại biểu HĐND cấp tỉnh; 225 chức sắc, chức việc, nhà tu hành và 246 tín đồ là đại biểu HĐND cấp huyện; 646 chức sắc, chức việc, nhà tu hành và trên 5.000 tín đồ là đại biểu HĐND cấp xã nhiệm kỳ 2021-2026, là thành viên Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và tích cực tham gia các đoàn thể khác như Hội người cao tuổi Việt Nam, Hội người bảo trợ người khuyết tật và trẻ em mồ côi Việt Nam… Với những thành tựu và thực tế nêu trên, là một bức tranh sống động về đời sống tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam mà những kẻ cố tình bóp méo sự thật đã cố tình xuyên tạc trắng trợn, hãy mở mắt ra, hãy nhận định cho đúng nếu còn có sự tự trọng với những phát ngôn hay báo cáo đưa ra./.

 

Thứ Ba, 27 tháng 12, 2022

Ảnh hưởng tiêu cực của các tà đạo mới xuất hiện ở Việt Nam

Qua các nghiên cứu đã công bố, ngoài một số ít hiện tượng tôn giáo mới chưa có những ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội, còn lại phần lớn mang tính “mê tín dị đoan”; gây ra nhiều tác động nguy hại cho con người và xã hội.


 

Việc xuất hiện các hiện tượng tôn giáo mới ở vùng dân tộc thiểu số, nhất là
những tổ chức chính trị hay bị các thế lực thù địch lợi dụng chi phối ở Tây Bắc
và Tây Nguyên, ngoài những ảnh hưởng tiêu cực nêu trên, còn gây mất ổn định
về an ninh chính trị, quản lý xã hội, tâm lý và ý thức dân tộc, bảo tồn và phát huy
những giá trị văn hóa của các dân tộc,...

Bên cạnh đó, việc hình thành các cộng đồng người liên kết theo tôn giáo trong nội bộ từng dân tộc hay liên tộc người ở trong và ngoài nước cũng là một trong những nhân tố gây ra mâu thuẫn cục bộ giữa những người đồng tộc hay khác tộc nhưng không cùng tín ngưỡng với nhau.

Một số hiện tượng tôn giáo mới còn tìm cách chống phá Nhà nước, tổ chức
các hoạt động và tuyên truyền luận điệu phê phán xã hội thực tại. Một số khác có
những hoạt động chống người thi hành công vụ; sáng tác thơ ca, hò vè có nội
dung xuyên tạc những vấn đề quan hệ quốc tế; nói xấu lãnh tụ và chế độ ta;
gây ảnh hưởng xấu tới an ninh chính trị trên địa bàn và đất nước.

Một số hiện tượng tôn giáo mới đã công kích các tín ngưỡng truyền thống
và tôn giáo hợp pháp. Hoạt động này đã làm phức tạp thêm trong nhận thức của
người dân về phân biệt giữa lợi dụng tín ngưỡng để thực hiện các hoạt động “mê
tín dị đoan” bất hợp pháp với sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo theo qui định của
pháp luật.

Có thể nói, hoạt động của các hiện tượng tôn giáo mới ở nước ta trong thời
gian qua đã gây nhiều hậu quả không chỉ cho lợi ích của xã hội, nhân dân, mà còn cho cả sự hoạt động bình thường của những tín ngưỡng, tôn giáo đã được thừa nhận về pháp lý. Các tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống có tư cách pháp nhân đều đã lên tiếng và phản ứng về những nhận thức và hành vi này, nhất là với các “tà đạo” đã vượt ngưỡng của tôn giáo bình thường, mang nặng màu sắc mê tín dị đoan, phi văn hoá do một số người lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để “kinh doanh” với nhiều thủ đoạn tinh vi.

Các hoạt động này đã làm đảo lộn cuộc sống yên bình của người dân ở nhiều địa phương, thậm chí còn gieo nỗi bất hạnh, đau thương về vật chất, tinh thần, tính
mạng và hạnh phúc gia đình cho nhiều người; gây bất ổn về trật tự xã hội, gây khó khăn cho công tác quản lí nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng; làm phương hại đến tính cố kết cộng đồng và khối đoàn kết dân tộc

Thứ Hai, 26 tháng 12, 2022

Nguyên nhân hình thành và phát triển một số tà đạo mới ở Việt Nam

 

Có thể xác định một trong những yếu tố chính để xuất hiện các tà đạo ở nước ta là do tác động của phong trào tôn giáo mới từ bên ngoài vào. Do đó, chỉ cần chính quyền áp dụng một số biện pháp quản lý hành chính thì nhiều tà đạo đã lụi tàn rất nhanh, hoặc số lượng người tin theo rất ít, mặc dù địa bàn có thể trải ra trên diện rộng. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận việc “bùng nổ” của các tà đạo từ sau đổi mới đến nay, nhất là ở miền Bắc và vùng dân tộc thiểu số, là do tác động mạnh mẽ của quá trình thay đổi nhận thức, chính sách và cách thức phát triển kinh tế, quản lý xã hội của các cấp chính quyền ở nước ta. Trong đó, những tác nhân trực tiếp là sự thay đổi về điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa và môi trường sống do tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập và toàn cầu hóa đưa lại, sự thay đổi này đã làm nảy sinh những vấn đề bức xúc của xã hội. Bên cạnh đó, sự tác động mạnh mẽ của trình độ dân trí, phương tiện truyền thông; lợi dụng quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của các tổ chức và cá nhân ở trong và ngoài nước... cũng là những yếu tố quan trọng làm xuất hiện và phát triển các tà đạo ở nước ta.


 

 Nguyên nhân hình thành và phát triển các tà đạo thuộc về 5 loại sau:

Thứ nhất là các yếu tố kinh tế - xã hội. Sự phát triển của nền kinh tế thị
trường ngoài các tác động tích cực quan trọng và to lớn, cũng đã góp phần làm
phân hóa xã hội, nhất là khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn giữa các bộ
phận dân cư ở những vùng miền và dân tộc. Một số người đã tìm kiếm sự che
chở, phù trợ từ tín ngưỡng, tôn giáo để cầu mong sự may mắn từ các lực lượng
siêu nhiên. Khi chuyển từ kinh tế bao cấp sang kinh tế thị trường, nhiều người
đã nhanh chóng thích nghi với môi trường cạnh tranh và thành công trong điều kiện mới. Cũng có một bộ phận không nhỏ gặp khó khăn, thất bại do những rủi ro, hoạn nạn, ốm đau... gây ra, và trở nên hẫng hụt, không theo kịp với sự chuyển biến của xã hội. Họ tìm sự lý giải do số phận theo cách riêng của mình và mong nhờ sự trợ giúp của thần thánh, vào giá trị tâm linh để có thể vượt qua hoàn cảnh thực tại. Những người này, theo các nhà nghiên cứu, là tầng lớp dễ bị tổn thương về tâm lý trước mọi mthay đổi của xã hội, dễ đi theo những hiện tượng tôn giáo khác nhằm tìm một lối thoát trong suy nghĩ và cảm nhận về thực tại của mình. Sự phát triển của kinh tế thị trường làm cho các tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống ngày càng bộc lộ rõ sự bất lực, tính linh thiêng bị giảm sút. Con người không chỉ tìm kiếm sự
thỏa mãn nhu cầu tâm linh ở đình, chùa, nhà thờ với những nghi lễ rườm rà, bó
buộc so với nếp sinh hoạt của xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mà dễ chấp nhận một dạng tín ngưỡng đơn giản hơn, phù hợp hơn. Đây là lý do làm nảy nở các hiện tượng tôn giáo mới.

Nền kinh tế thị trường gắn liền với xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi
hỏi cường độ lao động cao, kể cả chân tay và trí óc. Do đó, để giảm sự căng thẳng trong xã hội hiện đại, con người thường tìm đến các hiện tượng tôn giáo mới, mong tìm một sự thư giãn, giải trí. Bởi thế, nhiều tà đạothường tổ chức các chuyến thăm quan, giao lưu và hoạt động này thu hút được nhiều người tham gia. Những may rủi trong cuộc sống do thiên tai, sức khỏe gây ra, những bất công và tệ nạn xã hội nảy sinh từ thiếu việc làm, đời sống khó khăn... cũng là lý do để một số người tìm đến các hiện tượng tôn giáo mới.

Đặc biệt, một số người không thể tìm kiếm được việc làm thích hợp trong xã
hội hiện đại, và họ phát hiện ra rằng hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo cũng là một “nghề”, nhưng để hoạt động trong các tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống thì
không có đủ khả năng, nên họ tự động lập ra các đạo mới để hành nghề.

Thứ hai là các yếu tố văn hoá tinh thần.

Thách thức của toàn cầu hoá và mặt trái của cơ chế thị trường là những nguyên nhân chính khiến cho nhiều giá trị đạo đức, văn hoá, xã hội truyền thống
bị suy giảm. Trước tình trạng ấy, một bộ phận người dân đã tìm đến các hiện
tượng tôn giáo mới, trong đó có các “tà đạo” mang tính “mê tín dị đoan”, thậm
chí phản văn hiến, phi nhân tính, như: đạo Chân Không ở Hà Tĩnh, đạo Thiên Cơ ở Thái Bình, đạo Thiên Nhiên ở Hải Dương,... Một số người do mù chữ, trình độ học vấn thấp, nhận thức kém nên đã bị mê hoặc dẫn đến những hành động cực đoan gây chết người hay tự sát tập thể. Từ khi xoá bỏ bao cấp trong ngành văn hoá, thể thao thì ở nông thôn, vùng sâu vùng xa, các cơ sở văn hoá ngày càng xuống cấp, thiếu hụt sự quan tâm của chính quyền, đoàn thể và các tổ chức văn hoá. Vì vậy, một bộ phận quần chúng có đời sống tinh thần nghèo nàn, hiểu biết văn hoá hạn chế đã tìm đến những loại hình văn hoá khác, trong đó có các tà đạođể thoả
mãn nhu cầu tâm linh.

Thứ ba là sự phân ly của tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống.

Ở nhiều nước trên thế giới và nước ta, tình trạng phân ly tôn giáo, tín  ngưỡng truyền thống đang diễn ra, phản ánh sự đa dạng và phức tạp của cuộc sống
đương đại. Xu hướng phân ly này như một quy luật trong sự vận động và phát triển của tín ngưỡng, tôn giáo, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội và thiết chế chính trị. Bên cạnh đó, sự phủ nhận các tôn giáo, tín ngưỡng truyền thống của các hiện tượng tôn giáo mới, thể hiện qua thái độ phê phán gay gắt tôn giáo chủ lưu là bảo thủ, lạc hậu, phiền toái. Sự xuất hiện nhanh chóng các tà đạo ở nước ta trong những năm qua đã phản ánh những bất cập của tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống, nhất là các vấn đề suy thoái tư tưởng, đạo đức lối sống trước tác động của nền kinh tế thị trường, thể hiện qua những biểu hiện thương mại hoá và thế tục hóa tôn giáo, tín ngưỡng làm cho tính linh thiêng bị giảm sút. Vì vậy, con người cũng dễ dàng chấp nhận các hiện tượng tôn giáo mới.

Thứ tư là quá trình mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.

Tà đạo hiện nay cho thấy, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đã tạo điều kiện cho một số đạo lạ xâm nhập từ bên ngoài vào nước ta. Trong điều kiện đó, các thế lực thù địch thường lợi dụng các hiện tượng tôn giáo mới để hoạt động chống phá như: cung cấp tiền cho một số tổ chức tôn giáo mới là Đoàn 18 Phú Thọ, Thanh Hải Vô Thượng Sư, Pháp Luận Công, Tin Lành Đề ga, Tin Lành Vàng chứ.... Một số đạo lạ thông qua việc truyền bá giáo lý, hoạt động thờ cúng có nội dung hoạt động gắn với các vấn đề chính trị khá rõ, như phê phán Đảng, Nhà nước ta và chính quyền địa phương; gây rối trật tự xã hội; vi phạm pháp luật; gây tâm lý
hoang mang trong nhân dân; làm phức tạp và khó khăn cho công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.

Thứ năm là hệ thống chính trị ở địa phương.

Nhiều địa phương chưa nhận thức kịp thời, đầy đủ về bản chất của các hiện
tượng tôn giáo mới, coi đây là “tà đạo” nên chủ yếu tiến hành các biện pháp đấu
tranh xoá bỏ. Một số địa phương lại cho đây là các "tạp giáo" nên coi thường và
chủ quan cho rằng, việc giải quyết không mấy khó khăn. Có nơi gọi là “đạo lạ” hay “tôn giáo mới” nên có sự thận trọng, áp dụng các giải pháp thiếu cương quyết, buông lỏng để mặc cho các đạo lạ hoành hành, vì sợ động chạm đến chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Ở một số nơi, công tác quản lý xã hội còn bị buông lỏng, công tác quần chúng thiếu sâu sát, không phát hiện kịp thời, các đạo lạ xâm nhập, phát triển; khi phát hiện ra thì lúng túng, xử lý không dứt điểm. Chính vì thế, trong
khi các đạo này chưa được giải quyết, thì các đạo khác lại xuất hiện; khi bị đấu tranh xử lý thì co cụm lại, thậm chí từ bỏ, nhưng thực chất vẫn tồn tại âm ỷ chờ thời cơ để phát triển trở lại, lan toả ra các địa bàn khác.

 Có thể nói, các hiện tượng tôn giáo mới hình thành, xâm nhập và phát triển ở nước ta có nguyên nhân là quá trình quản lý xã hội của hệ thống chính trị các cấp, trực tiếp là ở các địa phương, còn hạn chế; sự hiểu biết về tôn giáo, tín ngưỡng nói chung và các hiện tượng tôn giáo mới nói riêng; sự lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng của các thế lực thù địch; việc phân công chức năng, nhiệm vụ quản lý, giải quyết các hiện tượng tôn giáo mới của các cấp, ngành chưa rõ ràng, chủ yếu giao phó cho các cơ quan chức năng thực hiện; đội ngũ cán bộ trực tiếp triển khai công tác này còn thiếu và chưa được đào tạo cơ bản về chuyên môn, nghiệp vụ; đặc biệt là còn thiếu một hành lang pháp lý trong công tác đối với các hiện tượng tôn giáo mới.