Cuối tháng 9 vừa quà, tổ chức Uỷ Hội Hoa Kỳ về Tự Do Tôn
Giáo Quốc Tế USCIRF công bố tài liệu nghiên cứu về tự do tôn giáo tại Việt Nam.
Bản báo cáo đưa ra các “trợ cụ đàn áp tôn giáo” trong đó nêu “các luật chủ chốt
để kiểm soát tôn giáo” gồm Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và Nghị định
số 162/2017/ND-CP; Luật Đất đai năm 2013, Luật Xây dựng năm 2014, Bộ luật hình
sự năm 2015, và Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018. Rõ ràng nhận định, đánh
giá này của USCIRF là hoàn toàn áp đặt và có thể nói là “hồ đồ” khi đưa ra dưới
tư cách là một tổ chức tham vấn cho Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về tôn giáo.
Thứ nhất, là về Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2016, USCIRF cho rằng,
trong Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2016, chính phủ Việt Nam đã chọn thuật ngữ
"Tin ngưỡng" cho khái niệm tín ngưỡng, thuật ngữ này truyền tải ý
nghĩa "niềm tin vào các yếu tố thiêng liêng và siêu nhiên" mà không sử
dụng từ ngữ “tư tưởng và lương tâm” và cho rằng luật này “cho phép chính phủ
đàn áp bất kỳ tín ngưỡng nào mà họ cho là gây hại cho ĐCSVN”; hay phê phán Điều
33 khi yêu cầu một tổ chức tôn giáo được công nhận phải cung cấp cho Ban Tôn
giáo Chính phủ danh sách các chức sắc tôn giáo họ bổ nhiệm để Ban Tôn giáo
Chính phủ phê duyệt trong vòng 20 ngày kể từ ngày bổ nhiệm”; “Chương IV và VI của
Luật bắt buộc các tổ chức tôn giáo phải đăng ký các hoạt động của mình với
chính quyền địa phương, tỉnh, và trung ương, và phải hàng năm thông báo và xin
phép chính quyền để được thực hiện các hoạt động tôn giáo đó”; Điều 36 “trao
quyền cho Ban Tôn giáo Chính phủ bãi nhiệm các chức sắc tôn giáo khỏi vị trí của
họ thông qua các tổ chức tôn giáo do nhà nước kiểm soát”.
Những điều này là hoàn toàn sai sự thật, vì thứ nhất, trong
văn hóa Việt Nam thể hiện rất rõ ràng 2 khái niệm “tín ngưỡng” và “tôn giáo”,
tín ngưỡng được hiểu nôm na là niềm tin của con người được thể hiện thông qua
những lễ nghi, tôn thờ, ví dụ như tín ngưỡng thờ tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu,
tín ngưỡng thờ vua Hùng, tín ngưỡng thờ tổ nghề…., còn tôn giáo là niềm tin của
con người nhưng được thể hiện với đầy đủ các thành phần:đối tượng tôn thờ, giáo
lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức, ví dụ như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin
Lành, đạo Hồi… ở Việt Nam chỉ có khái niệm là tín ngưỡng và tôn giáo, và vì thế
mà khái niệm này phù hợp với người Việt cũng như những đặc điểm tôn giáo, tín
ngưỡng tại Việt Nam, còn tư tưởng và lương tâm trong tôn giáo suy cho cùng là
thuật ngữ của phương Tây, không giống với văn hóa Việt Nam. Thứ hai, các điều
luật trong Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2016 đã chỉ rõ việc các tổ chức tôn giáo
có tư cách pháp nhân cần thông báo cho cơ quan quản lý vấn đề tôn giáo là Ban
Tôn giáo Chính phủ hay đăng ký và thông báo về lịch trình hoạt động của tổ chức
đó trong năm. Đây là điều hiển nhiên vì mỗi tổ chức có tư cách pháp nhân, không
phải ở mỗi Việt Nam mà ở các quốc gia pháp quyền đều cần đăng ký và thông báo cụ
thể nhân sự, các hoạt động tôn giáo trong năm của mình cho Nhà nước quản lý. Mặt
khác, Điều 33 nêu rõ: Tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo bằng văn bản đến
cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo ở trung ương về người được
phong phẩm hoặc suy cử … của tổ chức tôn giáo khác chậm nhất là 20 ngày kể từ
ngày phong phẩm hoặc suy cử” và “Trường hợp người được phong phẩm hoặc suy cử
làm chức sắc không đáp ứng quy định tại khoản 2 Điều 32 của
Luật này (tức là người phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không trong
thời gian bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn
giáo; không có án tích hoặc không phải là người đang bị buộc tội theo quy định
của pháp luật về tố tụng hình sự), cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản
yêu cầu tổ chức tôn giáo hủy kết quả phong phẩm hoặc suy cử chức sắc”. Như vậy,
rõ ràng báo cáo của USCIRF đã bóp méo sự thật khi cho rằng Nhà nước “trao quyền
cho Ban Tôn giáo Chính phủ bãi nhiệm các chức sắc tôn giáo khỏi vị trí của họ
thông qua các tổ chức tôn giáo do nhà nước kiểm soát” trong khi điều luật chỉ
rõ những người không đủ năng lực hành vi dân sự hoặc không phải đang trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử thì sẽ không được bổ nhiệm các vị trí trong tổ
chức tôn giáo. Điều này không chỉ ở Việt Nam mà bất kỳ quốc gia nào có luật
pháp sẽ đều không cho phép những trường hợp không đủ tiêu chuẩn về hành vi hoặc
đang vi phạm pháp luật được tham gia vào các tổ chức đoàn thể xã hội.
Thứ hai là về Luật Đất
đai năm 2013 và Luật Xây dựng năm 2014. Về đất đai và xây dựng của mỗi đất
nước đều cần được quản lý chặt chẽ bởi lẽ nếu không có quy hoạch, không có phân
công quyền sở hữu hoặc xây dựng như thế nào thì ắt hẳn sẽ không nhà nước nào có
thể đảm bảo được trật tự an toàn xã hội được bởi lẽ đất đai là một loại tài sản
có giá trị lớn, thả nổi, mặc sức tự do thì đất nước nào cũng sẽ loạn. Mặt khác,
Việt Nam là đất nước đi theo chế độ Cộng sản, vậy “đất đai thuộc sở hữu toàn
dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”. Như vậy việc sở hữu
đất đai hay xây dựng hoặc một công trình nào, dù là công trình tôn giáo thì đều
cần sự cho phép của chính quyền địa phương, không phải ai bảo đó là đất của tôn
giáo và tôn giáo đó thích thì xây dựng cơ sở thờ tự của tôn giáo đó ở đâu và
lúc nào, quy mô như thế nào đều được. Chúng ta đang sống trong đất nước pháp
quyền, có luật pháp thì dù là người bình thường hay người trong tôn giáo đều phải
tuân thủ pháp luật.
Thứ ba, về Bộ luật hình sự năm 2015, báo cáo của USCIRF cho
rằng Bộ Công an sử dụng nhiều điều khoản trong Bộ luật hình sự để “nhắm vào các
nhóm tôn giáo độc lập”, bao gồm Điều 113, quy định tội “khủng bố nhằm chống
chính quyền nhân dân”; Điều 116, quy định tội “phá hoại chính sách đại đoàn kết”;
Điều 117, quy định tội “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin,
tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước”; và Điều 331, quy định tội “lợi dụng
các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân.” Và xuyên tạc “Chính phủ cố ý diễn giải rộng rãi vượt quá
phạm vi của các điều khoản này, để cho phép họ truy tố những người ủng hộ tự do
tôn giáo hoặc thực hành tôn giáo độc lập hoặc nhắm vào các thành viên của các cộng
đồng dân tộc tôn giáo thiểu số ở Tây Nguyên, Tây Bắc và đồng bằng sông Cửu Long”.
Điều này rõ ràng là xuyên tạc, Bộ Công an Việt Nam, trong lĩnh vực tôn giáo có
trách nhiệm bảo vệ, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của cá nhân, sự
bình đẳng giữa các tôn giáo trước pháp luật; đấu tranh, ngăn chặn, xử lý vi phạm
hành chính các hành vi xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng
tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật. Khi xảy ra các vụ việc vi phạm
pháp luật, thì dù là người bình thường hay người theo tôn giáo đều phải xử lý
trước pháp luật. Không có chuyện Bộ Công an nhắm vào “tổ chức tôn giáo độc lập”
như các đối tượng xuyên tạc. Ví dụ như vụ án liên quan Nguyễn Bắc Truyển tự nhận
là “tín đồ Phật giáo Hòa Hảo và nhà hoạt động nhân quyền”. Tuy nhiên, năm 2013,
Nguyễn Bắc Truyển cùng các đối tượng gồm Phạm Văn Trội, Nguyễn Trung Tôn và
Nguyễn Văn Đài đều là các thành viên sáng lập ra tổ chức “Hội Anh em dân chủ”
có kế hoạch đào tạo hội viên, phát triển lực lượng, thực hiện nhiều hình thức
tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; có quan hệ với các tổ chức,
cá nhân nước ngoài để vận động ủng hộ tài trợ kinh phí cho hội hoạt động, lập dự
án xin tài trợ cho hoạt động của hội; lợi dụng các sự kiện chính trị, sự kiện
nhạy cảm trong nước để kích động người dân phản đối chính quyền. Tại phiên tòa
phúc thẩm, Tòa đã tuyên y bản án 11 năm tù, 3 năm quản chế về tội “Hoạt động nhằm
lật đổ chính quyền nhân dân”. Việc áp dụng Bộ luật Hình sự xử lý các đối tượng trong
tôn giáo sẽ không khác với việc áp dụng bộ Luật hình sự khi xử lý các đối tượng
là người không theo tôn giáo. Vì vậy USCIRF thật vô cớ khi cho rằng bộ Luật
Hình sự Việt Nam “nhằm vào tổ chức tôn giáo độc lập” hay những cá nhân hoạt động
vì tự do tôn giáo. Những đối tượng mà Bộ Luật Hình sự áp dụng là những kẻ phạm
tội theo Bộ Luật hình sự và bị xử án một cách đúng người, đúng tội.
Thứ tư, về Luật Bảo vệ bí mật nhà nước năm 2018, USCIRF đưa
ra một “bằng chứng” là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vào thời điểm đó đã công bố
Quyết định 1722/QĐ-TTg, khẳng định rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã cài cắm
đặc vụ vào các tổ chức tôn giáo. Quyết định này xác định rằng các thông tin
liên quan đến những đảng viên “được lựa chọn, sắp xếp và tuyển dụng” bởi chính
quyền trong các tổ chức tôn giáo là thông tin mật”. Đây rõ ràng là thông tin
không được kiểm chứng nên không được tính là bằng chứng. Mặt khác, việc Luật Bảo
vệ bí mật nhà nước năm 2018 phân loại bí mật nhà nước thành ba cấp độ và cho
phép bảo mật trong thời gian nhất định gồm tối mật (30 năm), mật (20 năm) và
tuyệt mật (10 năm) là điều mà mỗi quốc gia đều cần thực hiện để đảm bảo an ninh
quốc gia của mình. Việc Việt Nam chưa giải mật những thông tin liên quan bí mật
Nhà nước là quyền của mình. Những tổ chức như USCIRF không hài lòng với điều luật
này là mong muốn can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam chăng? Nếu vậy,
USCIRF đang vi phạm luật pháp quốc tế rồi đó.
Cuối cùng, Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền, về lĩnh
vực tôn giáo, Việt Nam sử dụng pháp luật để đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tôn
giáo của người dân, đồng thời cũng đảm về các quyền lợi và trách nhiệm của các
cơ sở tôn giáo, bảo vệ tài sản của họ. Việc USCIRF đưa ra những dẫn chứng không
được kiểm chứng và không có cơ sở pháp lý để chứng minh thể hiện sự thiếu đáng
tin về những điều mà bản báo cáo “Các tổ chức tôn giáo bị Nhà nước kiểm soát và
tự do tôn giáo Việt Nam” do USCIRF công bố vào cuối tháng 9 vừa qua. Báo cáo
này nên bị hủy bỏ vì sự không khách quan và hồ đồ của USCIRF khi tin theo các
tài liệu do các tổ chức phản động người Việt lưu vong ở nước ngoài (chủ yếu là
BPSOS) cung cấp vì các tài liệu này chỉ là những thông tin bị bóp méo và thiếu
trung thực.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét