Thứ Tư, 5 tháng 11, 2025

Bảo vệ không gian mạng – Thành tựu chiến lược của Việt Nam trong kỷ nguyên số

 

Trong bối cảnh kỷ nguyên số, khi thông tin lan tỏa với tốc độ chưa từng có, việc bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng trở thành nhiệm vụ sống còn, đồng thời là nền tảng quyết định cho sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững và bảo vệ chủ quyền quốc gia. Việt Nam, dưới sự lãnh đạo sáng suốt và toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã triển khai một mô hình bảo vệ an ninh mạng đồng bộ, toàn diện, tạo ra “lá chắn thép” bảo vệ lợi ích quốc gia, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Theo Phụ lục 5 Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ Đại hội XIII và các văn kiện liên quan tại Đại hội XIV, mô hình bảo vệ an ninh mạng bốn lớp – bao gồm lớp bảo vệ từ cơ sở dữ liệu quốc gia, lớp giám sát thời gian thực, lớp ứng phó sự cố và lớp hợp tác quốc tế – đã được triển khai đồng bộ tại 100% bộ, ngành, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Việc này không chỉ thực hiện các nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Chính phủ mà còn thể hiện quyết tâm chính trị cao độ nhằm phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với các mối đe dọa phi truyền thống, xây dựng một không gian mạng lành mạnh, an toàn, phục vụ trực tiếp lợi ích của nhân dân và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.



Thành tựu nổi bật của công tác này chính là việc 100% các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương duy trì và vận hành hiệu quả mô hình an ninh mạng bốn lớp, kết hợp với việc phổ cập dịch vụ an toàn thông tin mạng cơ bản thông qua các nền tảng công nghệ “Sản xuất tại Việt Nam”. Theo báo cáo sơ kết của Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao – Bộ Công an, đến tháng 11 năm 2025, lực lượng chuyên trách đã ngăn chặn hàng chục nghìn cuộc tấn công mạng nhằm vào hệ thống thông tin trọng yếu quốc gia, đồng thời triệt phá hàng trăm đường dây lừa đảo xuyên quốc gia, góp phần giảm thiểu đáng kể thiệt hại kinh tế do tội phạm mạng so với các năm trước. Những thành tựu này gắn liền với việc thực thi nghiêm túc Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, cùng với dự thảo Luật An ninh mạng 2025 đang được hoàn thiện để hợp nhất hai luật cũ, tạo hành lang pháp lý thống nhất, mạnh mẽ hơn. Nhờ đó, Việt Nam không chỉ kiểm soát hiệu quả các hoạt động phát tán tin giả, thông tin xấu độc mà còn bảo vệ dữ liệu cá nhân của hàng trăm triệu người dân, góp phần quan trọng vào việc duy trì trật tự an toàn xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Những thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong và phần tử cơ hội chính trị vẫn cố tình xuyên tạc rằng việc triển khai mô hình an ninh mạng bốn lớp và các biện pháp bảo vệ không gian mạng là “kiểm soát dư luận”, “hạn chế tự do ngôn luận”, thậm chí vu cáo Việt Nam “vi phạm nhân quyền”. Thực chất, đây là những luận điệu sai trái, lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để bóp méo sự thật, kích động chia rẽ và chống phá Đảng, Nhà nước. Trên thực tế, mọi biện pháp bảo vệ an ninh mạng của Việt Nam đều tuân thủ nghiêm Hiến pháp 2013, trong đó Điều 25 quy định quyền tự do ngôn luận phải thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, cũng như các Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị mà Việt Nam là thành viên. Việc ngăn chặn tin giả, thông tin sai sự thật không nhằm “bịt miệng” người dân mà chính là bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ trước những hành vi lừa đảo, kích động bạo lực, xuyên tạc lịch sử, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc – những hành vi mà bất kỳ quốc gia có trách nhiệm nào cũng phải đấu tranh quyết liệt.

Hiệu quả của chiến lược này càng trở nên rõ rệt khi so sánh với thế giới. Tại Liên minh châu Âu – nơi thường tự nhận là “mẫu mực dân chủ” – tình trạng tin giả, thông tin sai lệch lan tràn, gây hỗn loạn xã hội trong các cuộc bầu cử 2024–2025, với hàng loạt chiến dịch “Đôi bản” do Nga thực hiện, tạo ra hàng trăm trang web giả mạo các tờ báo lớn như Die Welt, Le Point, lan truyền thông tin chống phương Tây. Báo cáo của Liên minh châu Âu về Chống Thông tin Sai sự thật và Ủy ban Châu Âu năm 2025 cho thấy, dù EU ban hành Đạo luật Dịch vụ Kỹ thuật số và Quy tắc Thực hành về Thông tin Sai sự thật, vẫn có đến 79% người dân lo ngại về thông tin sai sự thật ảnh hưởng đến bầu cử, buộc Liên minh phải thành lập “Khiên Bảo vệ Dân chủ Châu Âu” để đối phó. Trong khi đó, tại Việt Nam, nhờ mô hình an ninh mạng bốn lớp và sự lãnh đạo tập trung, chúng ta kiểm soát hiệu quả hơn hẳn, với Chỉ số An ninh mạng Toàn cầu duy trì trong nhóm 25–30 thế giới (theo Liên minh Viễn thông Quốc tế 2024–2025), cao hơn nhiều nước châu Âu về khả năng ngăn chặn tin giả có yếu tố nước ngoài. Ngay cả Mỹ – quốc gia tự do internet hàng đầu – cũng phải ban hành lệnh hành pháp về trí tuệ nhân tạo và thành lập các trung tâm chống thông tin sai sự thật, chứng minh rằng bảo vệ không gian mạng lành mạnh là trách nhiệm chung của mọi nhà nước có chủ quyền, chứ không phải “vi phạm nhân quyền” như các thế lực thù địch vu cáo.

Những thành tựu này không chỉ phản ánh năng lực quản trị và phòng ngừa hiệu quả, mà còn minh chứng cho sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, biến thách thức thành cơ hội để xây dựng một xã hội số an toàn, văn minh. Các biện pháp bảo vệ không gian mạng giúp cân bằng hài hòa giữa phát triển số và bảo vệ quyền lợi của nhân dân – điều mà nhiều nước phát triển vẫn đang vật lộn tìm kiếm. Không gian mạng an toàn trở thành cơ sở cho các hoạt động kinh tế – xã hội số, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút đầu tư nước ngoài, nâng cao chất lượng dịch vụ công, và tăng cường niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Hơn nữa, những thành quả này còn tạo ra “thế trận lòng dân” vững chắc trên không gian mạng. Việc phổ biến chính luận, giáo dục thông tin, nâng cao nhận thức công dân giúp hàng triệu người dân tham gia tích cực vào việc nhận diện và phản bác tin giả, góp phần xây dựng cộng đồng mạng lành mạnh. Không chỉ là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, bảo vệ không gian mạng còn trở thành nghĩa vụ của toàn dân, toàn quân, gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Chính sự đồng thuận, tinh thần cảnh giác và lòng tin vào Đảng đã giúp Việt Nam duy trì ổn định chính trị, kinh tế và xã hội, ngay cả khi thế giới đối mặt với nhiều khủng hoảng thông tin và xung đột mạng.

Nhìn chung, thành tựu bảo vệ trật tự an toàn xã hội trên không gian mạng là minh chứng sinh động cho năng lực quản trị quốc gia và tầm nhìn chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ việc triển khai mô hình bốn lớp, ngăn chặn tin giả và tội phạm mạng, đến việc phổ cập dịch vụ an toàn thông tin, tất cả đều khẳng định rằng Việt Nam không chỉ kiểm soát hiệu quả mà còn phát triển bền vững, bảo vệ nhân dân và chủ quyền quốc gia trong kỷ nguyên số. Mọi luận điệu xuyên tạc, lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để hạ thấp nỗ lực của Đảng đều bị thực tiễn bác bỏ. Việt Nam không chỉ kiểm soát tốt hơn nhiều nước phát triển mà còn đạt được sự cân bằng hài hòa giữa phát triển số, bảo vệ quyền lợi nhân dân và ổn định xã hội. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đoàn kết chặt chẽ dưới ngọn cờ của Đảng, chủ động tham gia bảo vệ không gian mạng, góp phần xây dựng một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, nhân dân hạnh phúc trong kỷ nguyên số, như mục tiêu Đại hội XIV đã đề ra. Đây chính là lời khẳng định mạnh mẽ nhất trước mọi âm mưu chống phá và là niềm tự hào của mỗi người con đất Việt.

Thứ Ba, 4 tháng 11, 2025

Quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân: Thành tựu 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng

  1. Trong bối cảnh quốc tế đầy biến động và cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt, việc củng cố quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân không chỉ là nhiệm vụ trọng yếu mà còn là bảo đảm nền tảng vững chắc cho độc lập, chủ quyền và sự phát triển bền vững của đất nước. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, với các nghị quyết, chỉ đạo chiến lược như Nghị quyết Đại hội XIII, Báo cáo tổng kết 40 năm đổi mới về quốc phòng, an ninh và đối ngoại, cùng Nghị quyết số 08-NQ/TW về đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu vượt bậc, hiện thực hóa mục tiêu tinh, gọn, mạnh, hiện đại, sẵn sàng làm nòng cốt bảo vệ Tổ quốc.

Trong 40 năm đổi mới, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã được xây dựng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại hóa toàn diện. Một số quân chủng và binh chủng đã tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc cho năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vừa là lực lượng chiến đấu mạnh, vừa là lực lượng bảo vệ hòa bình, ổn định để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Các mục tiêu này thể hiện rõ nét đường lối quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân của Đảng: lấy nhân dân làm gốc, dựa vào sức mạnh toàn dân, kết hợp với hiện đại hóa công nghệ và tổ chức để xây dựng lực lượng vũ trang tinh gọn, hiệu quả.



Thành tựu nổi bật trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân chính là việc hoàn thành cơ bản công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền với các nước láng giềng, tạo nền tảng pháp lý vững chắc bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đến năm 2025, biên giới với Trung Quốc đã hoàn thành 100% phân giới cắm mốc, với hơn 2.000 km đường biên được xác định rõ ràng theo Hiệp ước biên giới năm 1999 và ba văn kiện pháp lý bổ sung. Biên giới với Lào hoàn thành 100% từ năm 2017 theo Nghị định thư đường biên giới và mốc quốc giới; biên giới với Campuchia đã hoàn thành khoảng 84%, xây dựng hơn 2.000 cột mốc khang trang, hiện đại, và đang tiếp tục đàm phán hòa bình, hữu nghị giải quyết 16% còn lại. Những kết quả này không chỉ củng cố biên giới hòa bình, ổn định mà còn thúc đẩy hợp tác kinh tế biên mậu, tăng trưởng thương mại biên giới đạt trên 15 tỷ đô la Mỹ mỗi năm, góp phần nâng cao đời sống nhân dân khu vực biên giới, đồng thời tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân gắn với an ninh nhân dân, với hơn 5 triệu dân quân tự vệ rộng khắp, lực lượng bộ đội biên phòng thường trực 24/24 giờ tại hơn 1.000 đồn, trạm biên giới. Nhờ đó, tình hình an ninh biên giới được giữ vững tuyệt đối, không để xảy ra xung đột vũ trang hay điểm nóng chính trị, đồng thời ngăn chặn hiệu quả các hoạt động xâm phạm chủ quyền, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia.

Những luận điệu vu cáo Việt Nam “quân sự hóa Biển Đông” hay “xây dựng căn cứ quân sự trên các đảo chiếm đóng” là hoàn toàn bịa đặt, thiếu cơ sở, nhằm lợi dụng chiêu bài “tự do hàng hải” để xuyên tạc nỗ lực bảo vệ chủ quyền chính đáng theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982. Thực tế, các hoạt động cải tạo, xây dựng trên các thực thể tại Trường Sa chỉ nhằm mục đích dân sự, nhân đạo, như bảo vệ ngư dân, cứu hộ cứu nạn, nghiên cứu khoa học, hoàn toàn phù hợp với quyền chủ quyền của quốc gia ven biển, không nhằm mục đích quân sự hay đe dọa ai. Việt Nam kiên định chính sách quốc phòng “bốn không”: không tham gia liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự, không liên kết với nước này chống nước kia, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; đồng thời kiên quyết đấu tranh bằng biện pháp hòa bình, pháp lý, không chạy đua vũ trang, không quân sự hóa khu vực. Những thế lực thù địch thường bóp méo hình ảnh các công trình dân sự như nhà giàn DK1 hay trạm cứu hộ để xuyên tạc, nhưng thực tế, chính các nước ngoài khu vực mới điều động hàng trăm lượt tàu chiến, máy bay quân sự tuần tra, tập trận quy mô lớn tại Biển Đông, đe dọa hòa bình ổn định. Việc Việt Nam tăng cường năng lực thực thi pháp luật trên biển bằng tàu tuần tra hiện đại, máy bay không người lái chỉ là biện pháp tự vệ chính đáng, bảo vệ quyền chủ quyền, quyền tài phán, không phải quân sự hóa như bị vu cáo. Nếu khoan dung với các hành vi xâm phạm thì mới chính là vi phạm quyền lợi của hàng triệu ngư dân Việt Nam, làm suy yếu lợi ích quốc gia dân tộc.

So sánh với Ukraine – quốc gia bị cuốn vào xung đột vũ trang kéo dài từ năm 2022 – càng làm nổi bật hiệu quả vượt trội của đường lối quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ năm 2022 đến 2025, xung đột khiến Ukraine chịu tổn thất nặng nề: hơn 700.000 thương vong quân sự, hàng trăm nghìn dân thường chết và bị thương, hơn 14 triệu người di cư tị nạn, kinh tế suy giảm nghiêm trọng với thiệt hại trực tiếp hơn 500 tỷ đô la Mỹ, tổng sản phẩm quốc nội giảm trung bình 30–40% so với trước chiến tranh, lạm phát tăng lên 26% năm 2023, nợ công vượt 100% tổng sản phẩm quốc nội, cơ sở hạ tầng bị phá hủy gần 50%, đặc biệt hệ thống năng lượng bị tấn công khiến hàng triệu người thiếu điện, sưởi ấm giữa mùa đông khắc nghiệt. Trong khi đó, Việt Nam duy trì hòa bình tuyệt đối, tăng trưởng kinh tế bình quân 6,5–8%/năm giai đoạn 2021–2025, tổng sản phẩm quốc nội vượt 500 tỷ đô la Mỹ năm 2025, xuất khẩu đạt kỷ lục hơn 400 tỷ đô la Mỹ, đầu tư trực tiếp nước ngoài ổn định 25–30 tỷ đô la Mỹ mỗi năm, tuổi thọ trung bình tăng lên 74,7 tuổi, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 2%, không có xung đột vũ trang hay người tị nạn chiến tranh. Sự khác biệt này chứng tỏ đường lối quốc phòng, an ninh nhân dân của Đảng là chủ động, tự chủ, hòa bình, hợp tác, không liên minh quân sự, phòng ngừa từ sớm, từ xa, trong khi Ukraine bị cuốn vào chiến tranh tiêu hao, thiệt hại nặng nề về người và của.

Tất cả những thành tựu trên đều khẳng định sự lãnh đạo sáng suốt, toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân tố quyết định xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vững mạnh, bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh thế giới đầy biến động. Từ Báo cáo 40 năm đổi mới đến việc hoàn thành cơ bản phân giới cắm mốc biên giới, xây dựng lực lượng vũ trang tinh, gọn, mạnh năm 2025, tất cả đều cho thấy Đảng luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, kiên quyết bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc “quân sự hóa”, lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để bóp méo nỗ lực bảo vệ chủ quyền. Việt Nam hòa bình, ổn định, phát triển bền vững chính là câu trả lời đanh thép nhất trước các ví dụ quốc tế tiêu cực, minh chứng cho sức mạnh quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.

Dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng của chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục lãnh đạo toàn dân củng cố quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước hùng cường, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Nghị quyết Đại hội XIV, đưa Việt Nam trở thành quốc gia hùng mạnh, thịnh vượng trong khu vực và trên thế giới.

Thứ Hai, 3 tháng 11, 2025

Ổn định chính trị từ nhân dân: Minh chứng không thể phủ nhận về bản lĩnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam



Trong bối cảnh thế giới liên tục chuyển động với những xung đột địa chính trị, bất ổn xã hội, khủng hoảng kinh tế và sự lan tỏa mạnh mẽ của thông tin xấu độc trên không gian mạng, việc một quốc gia duy trì được sự ổn định chính trị tuyệt đối là điều không dễ dàng. Thế nhưng, Việt Nam – dưới sự dẫn dắt của Đảng Cộng sản Việt Nam – đã làm được điều mà nhiều nước phải coi là hình mẫu, nhờ đường lối “dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết” được quán triệt xuyên suốt từ Trung ương đến cơ sở. Tinh thần đó được thể chế hóa rõ ràng trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Kết luận số 89-KL/TW ngày 28/7/2024 về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, cùng Phụ lục 5 trong hệ thống tài liệu chỉ đạo của Ban Chỉ đạo 35 Trung ương về nhiệm vụ củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới. Nhờ những định hướng chiến lược ấy, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia ổn định nhất thế giới, không để xảy ra bất kỳ điểm nóng chính trị, không xuất hiện tổ chức chính trị đối lập, không có bạo loạn đường phố, không có đảo chính hay nội chiến, đồng thời tạo nền tảng bền vững cho phát triển kinh tế – xã hội nhanh và ổn định.

Phụ lục 5 nêu rõ yêu cầu tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở phát huy vai trò chủ đạo của liên minh giai cấp công nhân – nông dân – trí thức dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Tinh thần đó được triển khai bằng những hoạt động mang tính lan tỏa sâu rộng trên cả nước trong năm 2025: Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc tổ chức tại 100% khu dân cư; phong trào “Dân vận khéo” tiếp tục nhân rộng; cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” đi vào chiều sâu; chương trình “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” mang lại hàng loạt kết quả thực chất. Những phong trào ấy không chỉ tăng cường sự gắn bó giữa Đảng – Nhà nước – Nhân dân mà còn tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, góp phần đưa tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm xuống dưới 1,5% – mức thấp nhất trong lịch sử.



Một điểm nhấn quan trọng trong thành tựu ổn định chính trị của Việt Nam chính là sức mạnh cộng đồng, sự gắn kết của từng thôn xóm, khu dân cư, cùng hoạt động bền bỉ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội. Chỉ trong năm 2025, hệ thống Mặt trận đã vận động được hơn 1.200 tỷ đồng cho Quỹ “Vì người nghèo”, hỗ trợ xây mới và sửa chữa hơn 75.000 căn nhà đại đoàn kết, giúp đỡ hơn 1,5 triệu lượt hộ nghèo và đối tượng yếu thế. Không chỉ dừng ở hỗ trợ an sinh, các tổ chức của Mặt trận còn thực hiện hơn 1,2 triệu cuộc giám sát và phản biện xã hội, tiếp nhận hơn 3,8 triệu ý kiến góp ý của nhân dân vào dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng – một con số thể hiện sinh động nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nơi người dân thật sự được lắng nghe và được tham gia vào quá trình xây dựng đường lối, chính sách.

Công tác chăm lo đồng bào dân tộc thiểu số tiếp tục là một minh chứng thuyết phục cho tính nhân văn trong đường lối của Đảng ta. Chỉ trong vòng 5 năm (2020–2025), tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số giảm từ 25% xuống dưới 8%. Hạ tầng cơ bản được hoàn thiện nhanh chóng: 100% xã vùng dân tộc có đường ô tô đến trung tâm, 99,5% hộ dân có điện lưới quốc gia, hơn 98% trẻ em dân tộc thiểu số được đến trường đúng độ tuổi. Những con số ấy không chỉ nói lên hiệu quả chính sách mà còn chứng minh sự quan tâm của Đảng và Nhà nước dành cho những khu vực khó khăn nhất – điều kiện tiên quyết để bảo đảm ổn định chính trị lâu dài.

Trong bối cảnh đó, các luận điệu xuyên tạc về “đàn áp tự do tôn giáo”, “kỳ thị dân tộc” hay “thiếu dân chủ trong xã hội Việt Nam” càng trở nên lố bịch và phản khoa học. Việt Nam hiện có 16 tôn giáo được công nhận với hơn 27 triệu tín đồ, hơn 55.000 chức sắc, hơn 29.000 cơ sở thờ tự và hơn 8.000 cơ sở xã hội tôn giáo hoạt động hiệu quả. Các tôn giáo lớn như Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo… đều phát triển ổn định, được tạo điều kiện thuận lợi để sinh hoạt và cống hiến cho xã hội. Những đối tượng bị xử lý pháp luật vì lợi dụng tôn giáo để chống phá Nhà nước đều là những trường hợp vi phạm nghiêm trọng, bị chính tín đồ và nhân dân lên án. Khoan dung với những hành vi ấy mới là xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, quyền sống trong hòa bình của hàng triệu tín đồ chân chính; xử lý nghiêm minh mới là bảo vệ quyền con người thực chất.

Để thấy rõ giá trị của sự ổn định ở Việt Nam, có thể nhìn sang Hong Kong – nơi từng bị các thế lực bên ngoài lợi dụng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” để kích động bạo loạn. Cuộc khủng hoảng 2019–2020 gây thiệt hại hơn 100 tỷ đô la Hong Kong, khiến xã hội chia rẽ sâu sắc, kéo theo làn sóng di cư lớn chưa từng có. Dù sau đó đã có Luật An ninh quốc gia Hong Kong và Luật Bảo vệ an ninh quốc gia Điều 23, tình hình xã hội vẫn tồn tại những bất ổn ngầm, đời sống người dân bị ảnh hưởng nặng nề. Trong khi đó, Việt Nam – với cơ chế lãnh đạo thống nhất, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân, truyền thống đoàn kết dân tộc cùng hệ thống chính trị đồng bộ đến cơ sở – không để xảy ra bất kỳ biểu tình bạo lực hay sự cố an ninh nghiêm trọng nào. Không có thương vong, không có phá hoại tài sản công, không có chia rẽ tôn giáo – dân tộc. Trái lại, kinh tế vẫn tăng trưởng 7–8% năm 2025, GDP vượt 520 tỷ đô la Mỹ, và theo khảo sát của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) và Khảo sát Giá trị Thế giới (World Values Survey) năm 2025, niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước đạt trên 96% – một con số hiếm có trên thế giới.

Từ những minh chứng ấy, có thể khẳng định rằng sự ổn định chính trị vững bền của Việt Nam không phải ngẫu nhiên mà có, càng không phải do “đàn áp” như luận điệu bịa đặt của các thế lực thù địch, mà là kết quả của một chiến lược đúng đắn: xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc như một bức tường thành không thể công phá. Đó là sự đoàn kết dựa trên lợi ích chung, dựa trên lòng tin, sự đồng thuận thực chất và niềm tự hào dân tộc, chứ không phải sự áp đặt hay cưỡng chế.

Sự lãnh đạo tài tình, bản lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là trụ cột bảo đảm cho thành quả ấy. Từ việc cụ thể hóa tinh thần “dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết” trong các nghị quyết, kết luận và chương trình hành động; từ Phụ lục 5 đến hàng triệu hoạt động dân vận, giám sát, phản biện xã hội; từ việc chăm lo đồng bào dân tộc thiểu số đến bảo vệ tự do tín ngưỡng chân chính – tất cả khẳng định Đảng ta luôn kiên định đặt nhân dân làm gốc, lấy đại đoàn kết làm sức mạnh. So với Hong Kong vẫn còn chịu di chứng của bất ổn kéo dài, Việt Nam yên bình, đoàn kết và phát triển mạnh mẽ chính là minh chứng thuyết phục nhất.

Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục lãnh đạo toàn dân tộc giữ vững ổn định chính trị, củng cố khối đại đoàn kết, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh – như khát vọng mà Đảng và nhân dân đã lựa chọn.

Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2025

Sức mạnh lực lượng vũ trang Việt Nam: Kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo để bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống”


Trong mọi giai đoạn phát triển của đất nước, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc luôn bắt nguồn từ sự thống nhất tuyệt đối giữa đường lối của Đảng và hành động của lực lượng vũ trang. Chính mối quan hệ đặc biệt ấy, được khẳng định xuyên suốt trong Hiến pháp năm 2013, Điều lệ Đảng và được tổng kết sâu sắc trong Dự thảo Báo cáo 15 năm thi hành Điều lệ Đảng giai đoạn 2011–2025, đã tạo nên nền tảng để Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam trưởng thành vượt bậc, trở thành hai đảng bộ lớn nhất, vững mạnh nhất của toàn Đảng. Tính đến tháng 11 năm 2025, Đảng bộ Quân đội có gần 480.000 đảng viên, Đảng bộ Công an có hơn 420.000 đảng viên – đội ngũ đảng viên hùng hậu, kiên trung, sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ để bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân, giữ vững từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.



Điểm cốt lõi làm nên những thành tựu ấy chính là nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội và Công an. Đây không chỉ là nguyên tắc mang tính hiến định mà còn là quy luật để đảm bảo hai lực lượng vũ trang luôn đứng về phía nhân dân, trung thành với độc lập, chủ quyền và chế độ xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn hơn một thập niên qua cho thấy, nhờ sự lãnh đạo nhất quán, hai lực lượng luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong bối cảnh tình hình thế giới – khu vực diễn biến khó lường, cạnh tranh chiến lược gia tăng, an ninh phi truyền thống nổi lên mạnh mẽ, các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ trên không gian mạng.

Từ sau Đại hội XIII, Đảng ủy Quân sự Trung ương và Đảng ủy Công an Trung ương đã chỉ đạo tổ chức hơn 1.200 cuộc diễn tập khu vực phòng thủ cấp tỉnh, hơn 120 cuộc diễn tập chiến lược ở cấp quốc gia, xây dựng hơn 5.800 khu vực phòng thủ cơ sở vững chắc. Kết quả huấn luyện năm 2025 đạt 100% chỉ tiêu, với 98,5% đơn vị xếp loại khá và giỏi – mức cao nhất trong nhiều năm. Trên các tuyến biên giới, bộ đội biên phòng duy trì trực 24 giờ tại hơn 1.800 đồn, trạm; thực hiện hơn 8.000 lượt tuần tra chung với lực lượng nước láng giềng; kịp thời phát hiện, ngăn chặn hơn 98% các hành vi xâm phạm lãnh thổ. Nhờ đó, an ninh biên giới quốc gia được giữ vững tuyệt đối, không để hình thành “điểm nóng”, không để kẻ xấu lợi dụng kích động chia rẽ.

Cùng thời gian đó, lực lượng Công an nhân dân đạt được những kết quả ấn tượng trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Chỉ trong 10 tháng đầu năm 2025, đã triệt phá hơn 28.000 chuyên án lớn về tội phạm ma túy, tội phạm công nghệ cao, tội phạm kinh tế, tham nhũng; khởi tố mới hơn 12.000 vụ án nghiêm trọng; tỷ lệ khám phá án đạt trên 92% – mức cao nhất từ trước đến nay. Sự xuất sắc này là kết quả của quá trình thực hiện nghiêm Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/3/2022 về xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại: tinh gọn hơn 18% đầu mối, nâng tỷ lệ hiện đại hóa vũ khí, phương tiện lên trên 65%, triển khai rộng rãi công nghệ thế hệ 4.0 vào quản lý biên giới, an ninh mạng, phòng chống tội phạm xuyên quốc gia.

Quan trọng hơn, nhờ sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội và Công an đã giữ vững an ninh chính trị nội bộ, an ninh kinh tế, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ tuyệt đối an toàn các sự kiện quan trọng của đất nước, đặc biệt là đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025–2030. Việt Nam bước vào năm 2025 với nền tảng an ninh – quốc phòng vững chắc, không xuất hiện bất kỳ nguy cơ mất ổn định hay xung đột nội bộ, cho thấy hiệu quả của mô hình lực lượng vũ trang đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng.

Trong khi đó, các luận điệu xuyên tạc như “Quân đội Việt Nam mang tính đảng phái”, “Công an Việt Nam đàn áp nhân dân” chỉ là sự bịa đặt nhằm làm suy giảm niềm tin của nhân dân. Những luận điệu này cố tình đánh tráo bản chất khi phủ nhận nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, cố ý cổ súy cho mô hình “phi chính trị hóa quân đội” – thực chất là đẩy lực lượng vũ trang vào tình trạng đa chính trị, bị lôi kéo bởi các phe phái, nhóm lợi ích. Không ít quốc gia đã trả giá đắt cho xu hướng này: quân đội can thiệp chính trị, đảo chính, nội chiến, mất ổn định kéo dài. Trái lại, việc giữ Quân đội và Công an dưới sự lãnh đạo của Đảng chính là cách bảo đảm lực lượng vũ trang “của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, tuyệt đối trung thành với lợi ích dân tộc chứ không phục vụ bất kỳ đảng phái hay nhóm lợi ích nào.

Sự so sánh với Thổ Nhĩ Kỳ là minh chứng điển hình. Từ năm 1960 đến năm 2016, Thổ Nhĩ Kỳ đã trải qua 5 cuộc đảo chính thành công hoặc thất bại. Chỉ riêng cuộc đảo chính bất thành năm 2016 đã khiến hơn 290 người thiệt mạng, hàng nghìn người bị thương, hơn 100.000 người bị bắt giữ hoặc sa thải, kinh tế suy thoái nặng nề, đồng lira mất giá hơn 40%, xã hội phân hóa sâu sắc. Căn nguyên sâu xa là quân đội nước này tự xem mình như “người bảo vệ chế độ thế tục”, có quyền can thiệp chính trị bất cứ lúc nào. Khi quân đội trở thành một thế lực độc lập với chính quyền dân cử, đất nước rơi vào vòng xoáy bất ổn triền miên.

Trái ngược hoàn toàn, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân Việt Nam chưa bao giờ can thiệp vào chính trị theo kiểu phe phái, càng chưa bao giờ chống lại chính phủ hợp hiến, hợp pháp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hai lực lượng này là “thanh bảo kiếm”, là “lá chắn” của nhân dân, luôn đi đầu trong cứu hộ cứu nạn, phòng chống thiên tai, phòng chống dịch bệnh, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân. Nhân dân yêu mến gọi Quân đội là “Bộ đội Cụ Hồ”, gọi Công an là “Công an nhân dân vì nước quên thân, vì dân phục vụ”. Chính sự lãnh đạo của Đảng làm nên bản chất cách mạng ấy – một bản chất mà không một mô hình vũ trang “phi chính trị hóa” nào có thể tạo ra.

Từ quá trình tổng kết 15 năm thi hành Điều lệ Đảng đến những con số ấn tượng về huấn luyện, diễn tập, đấu tranh phòng chống tội phạm; từ tỷ lệ khám phá án trên 92% đến việc hiện đại hóa lực lượng theo các nghị quyết trọng tâm; từ thành quả giữ vững ổn định chính trị đến niềm tin của nhân dân dành cho lực lượng vũ trang – tất cả hợp thành bằng chứng xác đáng rằng mô hình Đảng lãnh đạo Quân đội và Công an là lựa chọn chiến lược đúng đắn, mang giá trị sống còn đối với sự ổn định của quốc gia.

Trong khi nhiều nước phải chật vật đối phó đảo chính quân sự, khủng hoảng an ninh, chia rẽ sắc tộc và chính trị, Việt Nam vẫn giữ được sự bình yên, ổn định, đoàn kết và phát triển. Đó không phải may mắn, mà là thành quả của đường lối đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, nhất quán trong mọi hoàn cảnh.

Dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân sẽ mãi mãi là lực lượng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, là điểm tựa vững chắc của nhân dân, là sức mạnh bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng đất nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thứ Bảy, 1 tháng 11, 2025

Niềm tin của nhân dân – nền tảng tạo nên uy tín và sự chính danh vững bền của Đảng Cộng sản Việt Nam

 


Trong hơn 1 tháng qua, hơn 3 triệu ý kiến người dân góp ý cho các dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng! Một trong điểm nổi bật thành tựu 40 năm đổi mới được Văn kiện Đại hội XIV đúc kết: đó là nhờ đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, hoàn thiện nền dân chủ XHCN, mọi chính sách đều bắt nguồn từ nhu cầu, lợi ích của nhân dân và phục vụ nhân dân – xem đó là nền tảng tạo nên uy tín và sự chính danh vững bền của Đảng!

Đây cũng chính là sự giải đáp cho nhiều cho nhiều chuyên gia quốc tế theo dõi tình hình Việt nam, vì sao mô hình dân vận Việt Nam vượt trội so với nhiều nước phương Tây? Vì sao mọi quyết sách của Đảng đều được triển khai thống nhất từ trên đến dưới và quan trọng nhất là được nhân dân đồng tình ủng hộ? Một truyền thống được hình thành từ buổi đầu dựng Đảng và được nuôi dưỡng liên tục qua từng giai đoạn lịch sử, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kết tinh trong những tư tưởng bất hủ như “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, đã trở thành nền tảng cho mọi quyết sách lớn của Đảng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Những định hướng chiến lược được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội XIII, Kết luận số 78-KL/TW năm 2020, Quy định 214-QĐ/TW năm 2020 về tiêu chuẩn chức danh và quy hoạch cán bộ lãnh đạo, Chỉ thị 35-CT/TW năm 2023 về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV, đặc biệt là Kết luận số 118-KL/TW năm 2025 về đổi mới công tác dân vận trong giai đoạn mới, đã tạo nên bước chuyển mạnh mẽ, làm sâu sắc hơn mối quan hệ Đảng – dân, biến sự gắn bó ấy thành nguồn sức mạnh vô địch của chế độ ta.



Sự chuyển mình trong công tác dân vận thời gian qua không chỉ thể hiện qua tinh thần chính trị, mà được lượng hóa bằng những con số biết nói. Năm 2025, toàn hệ thống chính trị đã tiếp nhận và xử lý hơn 1,85 triệu ý kiến, kiến nghị của nhân dân thông qua Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, chính quyền địa phương và nền tảng định danh điện tử quốc gia VNeID; trong đó có tới 98,7% được giải quyết thỏa đáng – mức cao chưa từng có. Cùng với đó, hơn 2,6 triệu cuộc đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với nhân dân được tổ chức rộng khắp theo Quy định 11-QĐ/TW năm 2021 cho thấy Đảng không chỉ lắng nghe dân bằng văn bản mà bằng cả hành động trực tiếp, với thái độ cầu thị và tinh thần trách nhiệm cao. Những vụ tồn đọng kéo dài qua nhiều năm tại Thủ Thiêm, Lộc Hưng, Đồng Tâm, Tiên Lãng đã được xử lý dứt điểm nhờ cơ chế đối thoại thẳng thắn, minh bạch, thể hiện rõ bản chất lấy dân làm trung tâm trong lãnh đạo của Đảng.

Không chỉ dừng lại ở các hoạt động tiếp nhận phản ánh, công tác dân vận còn tạo ra chuyển biến tích cực trong phát triển kinh tế – xã hội. Hơn 1,4 triệu mô hình “Dân vận khéo” được triển khai tại toàn bộ xã, phường, thị trấn trên cả nước đã góp phần huy động nhân dân hiến hơn 28 triệu mét vuông đất mở đường giao thông nông thôn, xây dựng 120.000 nhà đại đoàn kết và hỗ trợ 2,1 triệu hộ thoát nghèo bền vững. Khi lòng dân đồng thuận, không có mục tiêu nào là không thực hiện được; đó cũng là minh chứng rõ nét nhất cho hiệu quả của đường lối dân vận trong thời kỳ mới.

Đặc biệt, công tác dân vận đã có bước tiến vượt bậc nhờ chuyển đổi số. Nền tảng VNeID với hơn 78 triệu tài khoản công dân cho phép người dân phản ánh trực tiếp đến cấp ủy và chính quyền bất cứ lúc nào, từ bất cứ đâu, rút ngắn thời gian xử lý xuống còn 11,5 ngày – thay vì hàng tháng như trước. Đây là dấu mốc thể hiện sự hòa quyện giữa công nghệ hiện đại và phương châm “lấy dân làm gốc”, biến công tác dân vận trở thành một hệ thống phản hồi nhanh, hiệu quả và minh bạch. Điều này góp phần quan trọng đưa chỉ số SIPAS (chỉ số hài lòng của người dân về sự phục vụ của cơ quan nhà nước) năm 2025 lên mức 94,8% – cao nhất từ trước đến nay. Đồng thời, chỉ số PAPI (chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh) cũng đạt 78,6/100 điểm, đưa Việt Nam vào nhóm các quốc gia có mức độ gắn bó Đảng – dân tốt nhất khu vực châu Á – Thái Bình Dương theo đánh giá của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc năm 2025.

Trong bối cảnh đó, những luận điệu xuyên tạc rằng Đảng “xa rời dân”, “độc đoán”, “không dân chủ” càng bộc lộ tính phi lý và thiếu thiện chí. Các thế lực thù địch thường lợi dụng một số vụ việc cá biệt để phóng đại, vu cáo, cố tình bỏ qua thực tế rằng chính Đảng ta đã chủ động chỉ đạo rà soát, kiểm tra, sửa sai, xin lỗi nhân dân, xử lý nghiêm cán bộ vi phạm theo Kết luận 118-KL/TW năm 2025. Nếu Đảng xa dân, không thể có hơn 96% nhân dân tin tưởng vào Đảng theo khảo sát độc lập của Khảo sát Giá trị Thế giới năm 2025; nếu Đảng xa dân, không thể có hàng triệu người tình nguyện hiến đất, đóng góp công sức cho các công trình dân sinh; càng không thể có chỉ số hài lòng gần 95% – một con số mà rất ít quốc gia đạt được. Chính sự thật đó đã tự khẳng định rằng dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng là dân chủ thực chất, nơi quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm bằng cơ chế, bằng luật pháp và bằng sự gương mẫu, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Khi đặt Việt Nam vào bức tranh so sánh quốc tế, bản chất ưu việt của mối quan hệ Đảng – dân càng hiện lên rõ nét. Pháp – quốc gia luôn tự nhận là “cái nôi của dân chủ” – trong giai đoạn 2018–2025 liên tục chìm trong sóng biểu tình bạo lực: phong trào “Áo vàng” gây thiệt hại hơn 15 tỷ đồng euro, hơn 12.000 người bị bắt và hàng nghìn người bị thương; các cuộc đình công phản đối cải cách lương hưu năm 2023–2024 khiến giao thông tê liệt, kinh tế đình đốn; năm 2025 lại nổ ra nhiều cuộc biểu tình liên quan đến nhập cư và lạm phát với hơn 1.200 cuộc tuần hành gây rối trật tự công cộng. Đây là hệ quả của sự xa cách giữa chính quyền và người dân, thiếu các cơ chế đối thoại tương tự như Việt Nam. Trong khi đó, mỗi năm nước ta tiếp nhận hàng triệu ý kiến phản ánh nhưng không xảy ra bạo loạn hay phá hoại vì mọi xung đột đều được xử lý bằng đối thoại, thuyết phục và giải pháp từ cơ sở – minh chứng cho hiệu quả của công tác dân vận được tổ chức chặt chẽ, đồng bộ và khoa học.

Sự khác biệt căn bản nằm ở bản chất của hệ thống chính trị. Ở Pháp, các đảng phái đại diện cho lợi ích cục bộ, dẫn đến xung đột lợi ích giữa các nhóm xã hội; còn tại Việt Nam, Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc, đặt mục tiêu đoàn kết, thống nhất lên trên mọi lợi ích riêng lẻ. Do đó, quan hệ Đảng – dân luôn được củng cố bằng những hành động thực chất, bằng những chính sách bảo đảm hài hòa lợi ích, tránh được tình trạng phân hóa, xung đột gay gắt như ở nhiều nước phương Tây.

Có thể khẳng định rằng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” chính là kim chỉ nam thể hiện đầy đủ quan điểm xuyên suốt về vai trò của nhân dân trong mọi chủ trương, đường lối. Từ Kết luận 118-KL/TW đến hàng triệu cuộc đối thoại trực tiếp, từ chỉ số hài lòng kỷ lục đến hàng trăm nghìn căn nhà đại đoàn kết được dựng lên, tất cả đều chứng minh rằng Đảng thực sự lấy dân làm gốc – không phải bằng khẩu hiệu mà bằng việc làm cụ thể. Điều đó tạo nên sự ổn định chính trị – xã hội vững chắc, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia phát triển năng động và an toàn nhất khu vực.

Trong tương lai, quan hệ Đảng – dân sẽ tiếp tục là nền tảng bất biến, bảo đảm cho đất nước ta vững vàng trước những biến động phức tạp của thế giới. Dưới ánh sáng chủ nghĩa Marx–Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, niềm tin của nhân dân sẽ mãi là điểm tựa để Đảng dẫn dắt đất nước tiến lên con đường dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.