Thứ Ba, 30 tháng 7, 2024

Hoa Kỳ nên nhìn lại vi phạm nhân quyền của mình trước khi phán xét quốc gia khác

 


Trong báo cáo nhân quyền Việt Nam 2023, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ dành hẳn chương mục lên án điều kiện giam giữ, cải tạo trong các nhà tù ở Việt Nam, quy kết ngược đãi phạm nhân, điều kiện ăn ở không đảm bảo, không chăm sóc y tế đầy đủ,…

Tất nhiên, mỗi quốc gia căn cứ điều kiện của mình, có tiêu chuẩn, quy định khác nhau trong đảm bảo nhân quyền cho tù nhân trong quá trình giam giữ, cải tạo. Không thể áp đặt yêu cầu, điều kiện nước Mỹ cho Việt Nam và rồi quy kết Việt Nam “ngược đãi tù nhân” được. Cái chính là phải đối chiếu điều kiện giam giữ với quy định của pháp luật Việt Nam có đảm bảo hay chưa. Đó là chưa kể những bằng chứng quy kết ấy, thường được Bộ Ngoại giao Mỹ trích dẫn theo lời kể của mấy tù nhân chống đối chế độ và thân nhân họ như trường hợp Nguyễn Trung Tôn, tức thông tin một chiều từ thành phần chống phá Việt Nam thì thật lố bịch.

Đề cập đến chủ đề này, người viết google về điều kiện giam giữ, cải tạo của Mỹ, thì gặp ngay báo cáo điều tra rất khoa học từ tổ chức nghiên cứu có uy tín của Mỹ, chứ không phải trích dẫn từ lời kể ất ơ của kẻ có hằn thù, chống chế độ chính trị Việt Nam.

Theo một báo cáo toàn quốc  của Trường Luật Đại học Chicago và Liên đoàn Tự do Dân sự Hoa Kỳ công bố, những người lao động bị giam giữ tạo ra hàng tỷ đô la giá trị hàng hóa và dịch vụ hàng năm nhưng bị vi phạm nhân quyền trong tù, “ điều kiện lao động của những công nhân bị giam giữ tại nhiều nhà tù Hoa Kỳ vi phạm quyền cơ bản nhất của con người đối với sự sống và phẩm giá”…. Những phát hiện chính bao gồm:

“Gần hai phần ba (65%) số người bị giam giữ cho biết họ đang làm việc sau song sắt, tương đương với khoảng 800.000 công nhân bị giam giữ trong các nhà tù.

Hơn ba phần tư số người bị giam giữ được khảo sát (76%) cho biết họ phải đối mặt với hình phạt - chẳng hạn như giam giữ biệt lập, không được giảm án hoặc mất quyền thăm viếng của gia đình - nếu họ từ chối làm việc. 

Người lao động tù nhân phụ thuộc vào chủ lao động của họ. Họ không kiểm soát được nhiệm vụ công việc của mình, bị loại khỏi chế độ bảo vệ lương tối thiểu và làm thêm giờ, không thể tham gia công đoàn, không được đào tạo và trang bị đầy đủ, và bị từ chối đảm bảo an toàn tại nơi làm việc mặc dù điều kiện làm việc thường nguy hiểm.

Kết quả là, 64% số công nhân bị giam giữ được khảo sát cho biết họ lo lắng về sự an toàn của mình khi làm việc; 70% cho biết họ không được đào tạo nghề chính thức; và 70% cho biết họ không đủ khả năng chi trả cho những nhu cầu cơ bản như xà phòng và điện thoại với mức lương lao động trong tù. 

Những công nhân bị giam giữ tạo ra ít nhất 2 tỷ đô la hàng hóa và 9 tỷ đô la dịch vụ bảo trì nhà tù hàng năm, nhưng con số này không được theo dõi chặt chẽ và có khả năng cao hơn nhiều. 

Tuy nhiên, hầu hết các tiểu bang trả cho những người lao động bị giam giữ vài xu một giờ cho công việc của họ. Bảy tiểu bang (Alabama, Arkansas, Florida, Georgia, Mississippi, South Carolina và Texas) không trả bất kỳ khoản nào cho phần lớn công việc trong tù. Các tiểu bang khác trả trung bình từ 15 đến 52 xu một giờ cho các công việc không liên quan đến ngành công nghiệp. Những người lao động trong tù thường thấy tới 80% tiền lương của họ bị khấu trừ cho thuế, chi phí "ăn ở" và chi phí tòa án.

Hơn 80% lao động nhà tù làm công việc bảo trì nhà tù nói chung, trợ cấp chi phí cho hệ thống nhà tù phình to của chúng ta. Các nhiệm vụ khác chiếm chưa đến 10% công việc được giao, bao gồm: các dự án công trình công cộng (như sửa chữa đường bộ, hỗ trợ thiên tai, công việc lâm nghiệp và bảo trì công viên, trường học và văn phòng chính phủ); các ngành công nghiệp nhà tù tiểu bang, công việc nông nghiệp và các công việc được giao cho công ty tư nhân được thèm muốn”.

Báo cáo còn cho rằng “Những người lao động bị giam giữ thậm chí còn bị tước đi những quyền bảo vệ tối thiểu nhất chống lại tình trạng bóc lột và lạm dụng lao động. Họ được trả công rất ít cho công việc của mình mặc dù họ tạo ra hàng tỷ đô la cho các tiểu bang và chính quyền liên bang. Đã đến lúc chúng ta đối xử với những người lao động bị giam giữ một cách có phẩm giá. Nếu các tiểu bang và chính quyền liên bang có đủ khả năng giam giữ 1,2 triệu người, thì họ cũng có đủ khả năng trả công xứng đáng cho công việc của họ”.

Đây mới chỉ là một nội dung nhỏ, nếu bất kỳ ai chịu khó google chủ đề vi phạm nhân quyền ở Mỹ thì sẽ gặp vô khối báo cáo chi tiết, khoa học và đầy đủ tương tự. Tuy nhiên, chẳng có nước nào rảnh rỗi ngồi tập hợp tất cả vấn nạn nhân quyền ở Mỹ thành báo cáo nhân quyền hàng năm kiểu như Bộ Ngoại giao Mỹ cả. Nguyên nhân căn bản, không có nước nào, trừ Mỹ cần sử dụng báo cáo này để can thiệp vào công việc nội bộ quốc gia khác, biến nó thành vũ khí chính trị tấn công quốc gia có chủ quyền theo ý đồ của mình cả.

Thứ Hai, 29 tháng 7, 2024

Người Ấn phản ứng cực gắt với báo cáo tự do tôn giáo của Hoa Kỳ

 


Mặc dù được xem là đồng minh chiến lược về an ninh, chính trị, kinh tế, nhưng Ấn Độ luôn bị USCIRF đưa ra báo cáo cáo buộc vi phạm tự do tôn giáo và đòi đưa vào danh sách CPC. Chẳng hạn trong báo cáo năm nay, USCIRF khuyến nghị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chỉ định 17 quốc gia là CPC. Mười quốc gia trước đây đã được chỉ định là CPC: Miến Điện, Trung Quốc, Cuba, Eritrea, Iran, Nicaragua, Bắc Triều Tiên, Pakistan, Nga, Ả Rập Xê Út, Tajikistan và Turkmenistan. Năm quốc gia khác cũng được khuyến nghị thêm vào: Afghanistan, Ấn Độ, Nigeria, Syria và Việt Nam.

Theo đạo luật tự do tôn giáo của Hoa Kỳ, danh sách CPC là các quốc gia mà chính phủ tham gia hoặc dung túng cho các hành vi vi phạm quyền tự do tôn giáo “đặc biệt nghiêm trọng”, chẳng hạn như tra tấn hoặc giam giữ kéo dài mà không cần xét xử.  Còn Danh sách theo dõi đặc biệt (SWL) dành cho các quốc gia mà chính phủ tham gia hoặc dung túng cho các hành vi vi phạm quyền tự do tôn giáo “nghiêm trọng” đang diễn ra và nghiêm trọng. 

Báo cáo hàng năm của USCIRF thường  lên án chính phủ Ấn Độ vi phạm tín ngưỡng và hoạt động tôn giáo của các nhóm, giáo phái và cá nhân, nhất là cộng đồng thiểu số.

Mỗi bận phát đi cáo buộc như vậy, truyền thông, chính giới và dân chúng Ấn lại được dịp công kích Chính phủ Hoa Kỳ mạnh mẽ, quyết liệt, gay gắt.

Mỗi bận sau báo cáo nói trên, Ấn Độ lại công khai chỉ trích Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế năm 2022 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ là "có động cơ và thiên vị" khi chỉ trích đất nước này không bảo vệ quyền của các nhóm thiểu số. 

Người phát ngôn chính thức của Bộ Ngoại giao (MEA) thường khẳng định, "Ấn Độ tự hào về uy tín thế tục của mình, vị thế là nền dân chủ lớn nhất và là một xã hội đa nguyên với cam kết lâu dài về sự khoan dung và hòa nhập. Hiến pháp Ấn Độ đảm bảo các quyền cơ bản cho tất cả công dân, bao gồm cả các cộng đồng thiểu số."…

Báo chí Ấn độ cũng từng có bài viết công khai phản ứng “Hoa Kỳ phải sắp xếp lại nhà cửa trước khi cáo buộc Ấn Độ vi phạm quyền tự do tôn giáo”, cụ thể cho rằng Hoa Kỳ trước tiên phải sắp xếp lại ngôi nhà của mình trước khi "đặc biệt quan tâm" đến Ấn Độ. Báo cáo của Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) thấm đẫm sự đạo đức giả. Thái độ thánh thiện hơn người của họ biến mất khi nói đến đất nước của họ. Xin trích nguyên văn bài viết này

“Một báo cáo của tờ Washington Post cho biết người Mỹ gốc Phi đang tử vong với tỷ lệ cao hơn do vi-rút corona vì họ bị bỏ mặc trong hệ thống chăm sóc sức khỏe của Hoa Kỳ vốn đã bị định hình từ lâu bởi nạn phân biệt chủng tộc. Có sự chênh lệch trong cách họ được đối xử so với những người Mỹ khác. Họ đang làm những công việc không được trả lương nếu họ không xuất hiện.

Có một giả định rằng người Mỹ gốc Phi miễn nhiễm với bệnh cúm và phải tự lo cho bản thân. Họ cũng bị buộc phải làm việc để duy trì hoạt động kinh doanh. Kết quả là hầu hết những công nhân vận tải công cộng bị bệnh ở New York là người Mỹ gốc Phi.

Khi họ đến bệnh viện với các dấu hiệu nhiễm trùng, họ phải đối phó với những 'bác sĩ da trắng' thiên vị. Phân biệt chủng tộc đang diễn ra ở một tỷ lệ lớn các bác sĩ phẫu thuật không phải da trắng. Những sinh viên tốt nghiệp trường y đang bị phân biệt đối xử trong quá trình đào tạo phẫu thuật. Trường đại học phía tây bắc ở Chicago đã tiến hành một cuộc khảo sát và kết quả của cuộc khảo sát vừa được công bố ngày hôm qua. 23,7% số người được hỏi phàn nàn về sự phân biệt đối xử dựa trên chủng tộc và tôn giáo. Tỷ lệ cao nhất là ở người Mỹ gốc Phi với 70,7%, người Châu Á - 45,9% và người gốc Tây Ban Nha - 25,3%. 

Các hành vi phân biệt đối xử bao gồm đánh giá thiên vị công việc của họ, bị nhầm là người khác cùng chủng tộc và những bình luận gây tổn thương từ bệnh nhân và gia đình họ.

Điều này không đáng lo ngại sao? Điều này không vi phạm các tiêu chuẩn của USCIRF về phân biệt đối xử dựa trên danh tính sao?

USCIRF có dám đưa đất nước của mình vào danh sách theo dõi như vậy không? Nếu câu trả lời là không thì chiến dịch của cơ quan này vì tự do tôn giáo quốc tế là giả mạo. Nó không có quyền dạy bất kỳ ai về chủ nghĩa thế tục -- chắc chắn không phải là Ấn Độ”.

 

 

 

 



 

Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2024

Cần công tâm và khách quan khi đánh giá về tự do tôn giáo của Việt Nam


 

Trong báo cáo về tự do tôn giáo tại Việt Nam năm 2024, Ủy ban tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) có những nhận định, đánh giá thiếu khách quan, không chính xác về tình hình tôn giáo ở Việt Nam, cho rằng Việt Nam “đàn áp tôn giáo trong nước”; chỉ trích chính quyền và Công an Việt Nam trong xử lý một số vụ việc có yếu tố tôn giáo; USCIRF sử dụng thông tin trong báo cáo này chủ yếu từ nguồn thiếu kiểm chứng, được thu thập từ các tổ chức, cá nhân người Việt Nam ở nước ngoài có tư tưởng cực đoan, móc nối với các phần tử chống đối trong nước nên luôn thiếu khách quan, thậm chí xuyên tạc về tự do tôn giáo ở nước ta, điển hình như BPSOS, Việt Tân và một số tổ chức ngoại vi, tay chân hoặc nhóm chống đối khác. Dựa vào báo cáo này, Chính phủ Mỹ tiếp tục đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia cần theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo.

 

Do đó, ngày 09/5/2024, tại cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết bình luận của Việt Nam đối với báo cáo tự do tôn giáo năm 2024 của Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF), bà Phạm Thu Hằng, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao nhấn mạnh: Việt Nam luôn thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền theo hoặc không theo tôn giáo của người dân. Tại Việt Nam, không ai bị phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng và các hoạt động của các tổ chức tôn giáo được bảo đảm theo đúng các quy định của pháp luật. Các chính sách, nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người, trong đó có tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng đã được nhiều nước ghi nhận và đánh giá cao. Đây cũng là những đánh giá, nhận xét của các nước tại Phiên đối thoại về Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc vừa được tổ chức tại Geneva, Thụy Sĩ. Việt Nam bác bỏ những nhận định không khách quan, mang tính định kiến và không chính xác về tình hình thực tế tại Việt Nam được nêu trong Báo cáo tự do tôn giáo quốc tế năm 2024 của Uỷ ban Tự do Tôn giáo Hoa Kỳ (USCIRF).

 

Thực hiện rằng, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do, tín ngưỡng, tôn giáo của công dân là chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời gian qua. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII khẳng định: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cản trở sự phát triển của đất nước”. Điều 24, Hiến pháp Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 nhấn mạnh: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo”. Quốc Hội nước CHXHCN Việt Nam cũng đã ban hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016; Chính phủ ban hành Nghị định số 162/2017/NĐ-CP về quy định chi tiết việc thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo…Với các chủ trương, chính sách pháp luật đúng đắn về tín ngưỡng, tôn giáo, trong nhiều năm qua, Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc trong việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Đến nay, Việt Nam có trên 26,5 triệu tín đồ tôn giáo, hơn 54.000 chức sắc, chức việc, gần 30.000 cơ sở thờ tự, cùng hàng nghìn nhóm sinh hoạt tôn giáo tập trung của người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam. Hằng năm, tại Việt Nam có khoảng hơn 8.500 lễ hội tôn giáo, tín ngưỡng được tổ chức long trọng, trong đó có các lễ hội tôn giáo quốc tế lớn như: Đại Lễ Phật đản Liên hợp quốc VESAK; Đại hội giới trẻ tại Khu di tích Lịch sử Đền Hùng năm 2022 với sự tham dự của Tổng Giám mục Marak Zelewki, Đặc phái viên không thường trú của Tòa Thánh Vatican tại Việt Nam; nhiều Hội thảo quốc tế về Tôn giáo được tổ chức tại Việt Nam. Nhà nước cũng tạo điều kiện cho nhiều đoàn tôn giáo quốc tế đến thăm và làm việc tại Việt Nam như: Viện can dự toàn cầu Mỹ (IGE), Tập đoàn truyền thông WAZ của Đức, Ủy ban tự do Tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF).

Ở Việt Nam, các tôn giáo chung sống hài hòa, đoàn kết, gắn bó, đồng hành với dân tộc, không có xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo; đồng bào các dân tộc tôn giáo thực sự trở thành lực lượng quan trọng hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước; tích cực đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.  Không có bất kỳ xung đột đáng kể nào giữa chính quyền và các tổ chức tôn giáo hay giữa các tổ chức tôn giáo với nhau như nhiều nước trên thế giới và khu vực, có được điều đó là nhờ chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta.

 

Thứ Năm, 25 tháng 7, 2024

Dữ liệu trong báo cáo Uscirf lên án Việt Nam bị bóp méo có chủ ý

 

Uscirf - Uỷ ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Mỹ trong tháng 5/2024 đưa ra một bản báo cáo về tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam, Uscirf lên án Việt Nam “đàn áp tôn giáo” và đề nghị Chính phủ Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào diện “cần theo dõi đặc biệt”. 

 

Mở đầu bản báo cáo của Uscirf là nội dung đánh giá sơ bộ được gọi là “Chìa khoá phát hiện”. Ở nội dung này, Uscirf tóm tắt một số sự việc mà Uscirf cho rằng có tính chất quyết định trong việc đánh giá tự do dân chủ tại Việt Nam. Vậy những “chìa khoá” này, Uscirf đã sử dụng và khai thác dữ liệu như thế nào để đánh giá về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam?

 

Trong vụ khủng bố vào hồi tháng 6/2023 tại Đăk Lăk vừa qua, các đối tượng khủng bố sử dụng súng và tổ chức tấn công vào các trụ sở chính quyền khiến 9 người hy sinh. Khủng bố là hành vi phạm tội nghiêm trọng, ngay chính Hoa Kỳ là quốc gia dẫn đầu, kêu gọi quốc tế cùng nhau đấu tranh. Phía Hoa Kỳ cũng khẳng định không dung túng những đối tượng khủng bố ở Đăk Lăk và sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam điều tra.

 

Thế nhưng, Uscirf lại đưa sự việc này vào báo cáo của mình và khẳng định chính quyền Việt Nam sẽ sử dụng vụ việc này để đàn áp tín đồ theo đạo người đồng bào thiểu số vùng Tây Nguyên. Nhận định trên của Uscirf không có bất kỳ một minh chứng cụ thể nào, mà chỉ dựa vào quan điểm, nhận xét của một vài người. 

 

Không rõ chính quyền sẽ đàn áp thế nào, nhưng trong vụ khủng bố đó, chính người đồng bào thiểu số mà hầu hết là người theo đạo Tin lành lại là những người tích cực tố giác tội phạm, thậm chí còn cùng lực lượng chức năng tham gia vây bắt tội phạm. Trên các phương tiện truyền thông mạng xã hội, cũng chính người đồng bào lên án hành vi phạm tội của nhóm khủng bố một cách tích cực nhất, vì nhóm đối tượng đó đang làm xấu hình ảnh của người đồng bào thiểu số và phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.

 

Ở một sự việc khác, Uscirf lên án chính quyền Việt Nam mặc thường phục, đột nhập vào một ngôi chùa của người dân tộc Khmer tấn công trụ trì và các phật từ. Dữ liệu được Uscirf khai thác từ một tổ chức có tên là Liên đoàn Khmers Kampuchea-Krom (KKF). Đây là một tổ chức có trụ ở tại Hoa Kỳ, tổ chức này thành lập với mục đích đòi chính quyền Việt Nam trả lại vùng Đồng bằng sông Cửu Long cho người Khmer để thành lập nhà nước Khmer Krom. 

 

Uscirf đã khai thác thông tin từ KFF và cường điệu lên như toàn bộ tu sĩ, phật tử người Khmer tại Việt Nam đang bị chính quyền đàn áp, nhưng sự thật lại khiến người ta ngã ngửa. Sự việc cụ thể là một tu sĩ có tên là Thạch Đa Ra, ngang nhiên ép sư trụ trì chùa Đại Thọ (huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long) là sư Thạch Xươl (cũng là người Khmer) giao quyền trụ trì chùa cho mình. Trong khi dưới giọng văn của Uscirf thì Thạch Đa Ra là trụ trì hợp pháp của chùa Đại Thọ. Sau khi chiếm chùa trái phép, Thạch Đa Ra tiến hành tuyên truyền thành lập nhà nước Khmer Krom và treo cờ có 03 màu xanh - vàng - đỏ (cờ Khmer Krom) trên đoạn đường trước cổng chính chùa Đại Thọ.

 

Trước tình hình có nhiều sai phạm đó, chính quyền cử một tổ công tác đến chùa khuyên giải Thạch Đa Ra, nhưng y không nghe và cho đệ tử khóa cổng chùa, đe dọa, xúc phạm và bắt nhốt tổ công tác trái phép, thậm chí dùng tay và gậy đánh bị thương tổ công tác. Sự thật này đang ngược lại hoàn toàn so với cáo buộc mà Uscirf công bố.

 

Uscirf thậm chí còn cho rằng, chính quyền đàn áp những tu sĩ Phật giáo người Khmer, nhưng chính những sư thầy, tu sĩ và phật tử người Khmer là những người đã tố giác, lên án Thạch Đa Ra. Ban trị sự GHPGG huyện Tam Bình mà thành phần hầu hết đều là đồng bào Khmer từ sự việc trên cũng đã đưa ra quyết định không công nhận Thạch Đa Ra là tu sĩ thành viên thuộc GHPG. 

 

Nhân chuyến thăm của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tới Vatican vào hồi tháng 7 năm ngoái, Việt Nam đã cho phép Vatican đặt Đại diện thường trú của Tòa thánh Vatican tại Việt Nam. Đây là một tín hiệu rất tích cực trong quan hệ ngoại giao, mở ra nhiều cơ hội hợp tác và thúc đẩy các hoạt động của giáo hội tại Việt Nam. Như vậy, rõ ràng các giáo dân ở Việt Nam là người được hưởng lợi nhiều nhất, đồng thời cho thấy tình trạng tự do tôn giáo ở Việt Nam rất tích cực.

 

Tuy nhiên, để khai thác hết công suất việc lên án Việt Nam, Uscirf qua sự kiện này lại cho rằng “một số giáo dân Việt Nam lo ngại Chính phủ sẽ duy trì sự kiểm soát đạo Công giáp”. Dữ liệu được Uscirf khai thác từ trang tin RFA phỏng vấn “Một cư dân Công giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh”. Chỉ phỏng vấn một người mà cũng không rõ người đó là ai, có thật hay không, nhưng với Uscirf thì lại là tất cả và cường điệu nó lên thành một vấn đề để lên án Việt Nam. 

 

Trên đây là một số dữ liệu cơ bản mà Uscirf khai thác, để mà đi sâu vào chi tiết cụ thể, có lẽ một bài viết này là không đủ. Có thể thấy, cách khai thác dữ liệu và sử dụng dữ liệu của Uscirf đang mắc phải sự cảm tính, thiếu căn cứ, cơ sở xác thực, chỉ dựa trên thông tin một chiều và đầy sự ngụy biện. Đó là lý do vì sao, hàng năm Uscirf đều trình lên Quốc hội Hoa Kỳ và đưa ra những đề xuất với Chính phủ Hoa Kỳ đều bị ngó lơ một cách phũ phàng.

 

Thứ Ba, 23 tháng 7, 2024

Xây dựng báo cáo dựa vào thông tin của đám vô lại?

 Có ý kiế bình luận "cách Uscirf khai thác dữ liệu để lên án Việt Nam: Mông lung như một trò đùa!" nhằm lên án Hoa Kỳ luôn phá hoại mọi nỗ lực thúc đẩy nhân quyền của người dân Việt Nam

 

Uscirf - Uỷ ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Mỹ trong tháng 5/2024 đưa ra một bản báo cáo về tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam, Uscirf lên án Việt Nam “đàn áp tôn giáo” và đề nghị Chính phủ Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào diện “cần theo dõi đặc biệt”. 

 

Mở đầu bản báo cáo của Uscirf là nội dung đánh giá sơ bộ được gọi là “Chìa khoá phát hiện”. Ở nội dung này, Uscirf tóm tắt một số sự việc mà Uscirf cho rằng có tính chất quyết định trong việc đánh giá tự do dân chủ tại Việt Nam. Vậy những “chìa khoá” này, Uscirf đã sử dụng và khai thác dữ liệu như thế nào để đánh giá về tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam?

 

Trong vụ khủng bố vào hồi tháng 6/2023 tại Đăk Lăk vừa qua, các đối tượng khủng bố sử dụng súng và tổ chức tấn công vào các trụ sở chính quyền khiến 9 người hy sinh. Khủng bố là hành vi phạm tội nghiêm trọng, ngay chính Hoa Kỳ là quốc gia dẫn đầu, kêu gọi quốc tế cùng nhau đấu tranh. Phía Hoa Kỳ cũng khẳng định không dung túng những đối tượng khủng bố ở Đăk Lăk và sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam điều tra.

 

Thế nhưng, Uscirf lại đưa sự việc này vào báo cáo của mình và khẳng định chính quyền Việt Nam sẽ sử dụng vụ việc này để đàn áp tín đồ theo đạo người đồng bào thiểu số vùng Tây Nguyên. Nhận định trên của Uscirf không có bất kỳ một minh chứng cụ thể nào, mà chỉ dựa vào quan điểm, nhận xét của một vài người. 

 

Không rõ chính quyền sẽ đàn áp thế nào, nhưng trong vụ khủng bố đó, chính người đồng bào thiểu số mà hầu hết là người theo đạo Tin lành lại là những người tích cực tố giác tội phạm, thậm chí còn cùng lực lượng chức năng tham gia vây bắt tội phạm. Trên các phương tiện truyền thông mạng xã hội, cũng chính người đồng bào lên án hành vi phạm tội của nhóm khủng bố một cách tích cực nhất, vì nhóm đối tượng đó đang làm xấu hình ảnh của người đồng bào thiểu số và phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.

 

Ở một sự việc khác, Uscirf lên án chính quyền Việt Nam mặc thường phục, đột nhập vào một ngôi chùa của người dân tộc Khmer tấn công trụ trì và các phật từ. Dữ liệu được Uscirf khai thác từ một tổ chức có tên là Liên đoàn Khmers Kampuchea-Krom (KKF). Đây là một tổ chức có trụ ở tại Hoa Kỳ, tổ chức này thành lập với mục đích đòi chính quyền Việt Nam trả lại vùng Đồng bằng sông Cửu Long cho người Khmer để thành lập nhà nước Khmer Krom. 

 

Uscirf đã khai thác thông tin từ KFF và cường điệu lên như toàn bộ tu sĩ, phật tử người Khmer tại Việt Nam đang bị chính quyền đàn áp, nhưng sự thật lại khiến người ta ngã ngửa. Sự việc cụ thể là một tu sĩ có tên là Thạch Đa Ra, ngang nhiên ép sư trụ trì chùa Đại Thọ (huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long) là sư Thạch Xươl (cũng là người Khmer) giao quyền trụ trì chùa cho mình. Trong khi dưới giọng văn của Uscirf thì Thạch Đa Ra là trụ trì hợp pháp của chùa Đại Thọ. Sau khi chiếm chùa trái phép, Thạch Đa Ra tiến hành tuyên truyền thành lập nhà nước Khmer Krom và treo cờ có 03 màu xanh - vàng - đỏ (cờ Khmer Krom) trên đoạn đường trước cổng chính chùa Đại Thọ.

 

Trước tình hình có nhiều sai phạm đó, chính quyền cử một tổ công tác đến chùa khuyên giải Thạch Đa Ra, nhưng y không nghe và cho đệ tử khóa cổng chùa, đe dọa, xúc phạm và bắt nhốt tổ công tác trái phép, thậm chí dùng tay và gậy đánh bị thương tổ công tác. Sự thật này đang ngược lại hoàn toàn so với cáo buộc mà Uscirf công bố.

 

Uscirf thậm chí còn cho rằng, chính quyền đàn áp những tu sĩ Phật giáo người Khmer, nhưng chính những sư thầy, tu sĩ và phật tử người Khmer là những người đã tố giác, lên án Thạch Đa Ra. Ban trị sự GHPGG huyện Tam Bình mà thành phần hầu hết đều là đồng bào Khmer từ sự việc trên cũng đã đưa ra quyết định không công nhận Thạch Đa Ra là tu sĩ thành viên thuộc GHPG. 

 

Nhân chuyến thăm của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tới Vatican vào hồi tháng 7 năm ngoái, Việt Nam đã cho phép Vatican đặt Đại diện thường trú của Tòa thánh Vatican tại Việt Nam. Đây là một tín hiệu rất tích cực trong quan hệ ngoại giao, mở ra nhiều cơ hội hợp tác và thúc đẩy các hoạt động của giáo hội tại Việt Nam. Như vậy, rõ ràng các giáo dân ở Việt Nam là người được hưởng lợi nhiều nhất, đồng thời cho thấy tình trạng tự do tôn giáo ở Việt Nam rất tích cực.

 

Tuy nhiên, để khai thác hết công suất việc lên án Việt Nam, Uscirf qua sự kiện này lại cho rằng “một số giáo dân Việt Nam lo ngại Chính phủ sẽ duy trì sự kiểm soát đạo Công giáp”. Dữ liệu được Uscirf khai thác từ trang tin RFA phỏng vấn “Một cư dân Công giáo ở Thành phố Hồ Chí Minh”. Chỉ phỏng vấn một người mà cũng không rõ người đó là ai, có thật hay không, nhưng với Uscirf thì lại là tất cả và cường điệu nó lên thành một vấn đề để lên án Việt Nam. 

 

Trên đây là một số dữ liệu cơ bản mà Uscirf khai thác, để mà đi sâu vào chi tiết cụ thể, có lẽ một bài viết này là không đủ. Có thể thấy, cách khai thác dữ liệu và sử dụng dữ liệu của Uscirf đang mắc phải sự cảm tính, thiếu căn cứ, cơ sở xác thực, chỉ dựa trên thông tin một chiều và đầy sự ngụy biện. Đó là lý do vì sao, hàng năm Uscirf đều trình lên Quốc hội Hoa Kỳ và đưa ra những đề xuất với Chính phủ Hoa Kỳ đều bị ngó lơ một cách phũ phàng.

 

Thứ Hai, 22 tháng 7, 2024

Một báo cáo nhân quyền đi ngược xu hướng hợp tác, phát triển nhân loại

 


Việc Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tự cho mình cái quyền công bố, phán xét nhân loại bằng cái gọi là “báo cáo tình hình nhân quyền ở các nước” vào đầu năm mới  bất chấp việc nó luôn bị cố tình bóp méo, xuyên tạc sự thật về những tiến bộ trong cải thiện vấn đề dân chủ, nhân quyền trên thế giới. Tự cho mình quyền ngang nhiên nhúng mũi vào công việc nội bộ của người khác với mục tiêu mang danh nghĩa “thúc đẩy dân chủ” trên phạm vi toàn thế giới, từng bước thiết lập trật tự thế giới đơn cực Hoa Kỳ.

Được biết, cái gọi là “báo cáo về tình hình nhân quyền ở các nước” của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ được trình lên quốc hội Mỹ hằng năm theo Đạo luật Viện trợ nước ngoài (FAA) là hoàn toàn bất hợp pháp, vi phạm thô bạo Hiến chương Liên hợp quốc và nguyên tắc bình đẳng quốc gia trong ứng xử quốc tế. Theo đạo luật này, cứ vào ngày 25 tháng 2 hằng năm, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ phải trình lên Chủ tịch Hạ viện và Uỷ ban Quan hệ đối ngoại của Thượng viện một bản “báo cáo đầy đủ và chi tiết về tình hình nhân quyền của các nước nhận viện trợ, ở các nước thành viên Liên hợp quốc và không là đối tượng của báo cáo nhân quyền theo quy định của đạo luật”. Các bản báo cáo này là cơ sở để quốc hội Mỹ phê chuẩn các chính sách đối với các quốc gia nhận viện trợ và các quốc gia khác được coi là có ảnh hưởng đến an ninh quốc gia của Mỹ.

Nếu chỉ dừng lại là việc riêng của nước Mỹ thì không có chuyện gì đáng bàn, vì lẽ thông thường, để quyết định các chính sách đối ngoại, chính phủ nào cũng phải đánh giá tình hình của các bên đối tác. Người ta có thể nhận thấy mục đích chính của các báo cáo này là sự áp đặt cái gọi là “giá trị Mỹ” trên phạm vi toàn cầu, dọn đường cho sự can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia.

Sau khi Liên-xô và khối các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã vào thập niên 90 của thế kỷ trước, mất đối thủ tiểm tàng, còn lại siêu cường duy nhất, Mỹ cho rằng đây là thời cơ giành bá chủ thế giới, vì vậy đã triển khai chiến lược an ninh quốc gia mới với tham vọng thiết lập trật tự thế giới một cực do Mỹ độc tôn lãnh đạo. Oa-sinh-tơn không ít lần ngạo mạn tuyên bố: “…đã đến lúc người Mỹ phải đảm nhận lấy vai trò lãnh đạo thế giới " hay "một thế giới không do Mỹ lãnh đạo sẽ là một thế giới bất ổn". Sa-mu-en R.Béc-gơ, một trong những chiến lược gia hàng đầu của Mỹ khẳng định: "...chưa bao giờ sự lãnh đạo của chúng ta (nước Mỹ) lại cần thiết và cấp bách đến thế…. Trong khi đó, Mỹ đã không dưới 68 lần can thiệp quân sự, gây chiến tranh xâm lược, dưới danh nghĩa “bảo vệ nhân quyền, tự do tôn giáo, thúc đẩy dân chủ”. Lịch sử đã ghi nhận “chiến tích” của “những chiến sỹ xung kích” bảo vệ nhân quyền của Hoa Kỳ bằng việc vô cớ chiếm đóng và bắn giết hàng triệu người dân vô tội ở Đông Dương, Triều Tiên, Li-bi, Nam Tư… và đang thả sức thảm sát nhân dân các nước I-rắc, Áp-ga-ni-xtan…Không lẽ những người dân vô tội này là những kẻ vi phạm nhân quyền? Phải chăng những hành động bắt cóc, ám sát, lật đổ, gây rối an ninh xã hội các quốc gia có chủ quyền ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ-La tinh, Đông Âu và nhiều điểm nóng của thế giới được các cơ quan đặc biệt Hoa Kỳ thực hiện từ trước đến nay là những hành động trượng nghĩa, bảo vệ nhân quyền? Những vụ thảm sát đẫm máu dân thường ở Sơn Mỹ (Quảng Ngãi), Khâm Thiên (Hà Nội) và các nạn nhân chất độc da cam do quân Mỹ gây ra trong chiến tranh Việt Nam mãi mãi là bằng chứng không thể chối cãi, minh chứng cho tính vô nhân đạo của cái gọi là “giá trị Mỹ”. Liệu Oa-sinh-tơn có thể chứng minh cho sự trong sạch, ngay thẳng của mình khi đem bom tàn phá Li-bi, Bê-ô-grát (Xéc-bi-a), đem quân vào xâm lược Áp-ga-ni-xtan, I-rắc? Phải chăng những hành động bắt bớ, giam cầm, tra tấn, hãm hiếp, giết hại dân thường của quân nhân Mỹ đang diễn ra ở I-rắc, Áp-ga-ni-xtan là hành “động thúc đẩy dân chủ”?

Trong khi lớn tiếng rao giảng “dân chủ” và truyền bá cái gọi là “giá trị của thế giới tự do” khắp hành tinh thì trong lòng xã hội Mỹ còn đầy rẫy bất công và bạo lực. Đó là tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng trầm trọng.

Lịch sử và hiện thực đang chứng minh rằng, chính sách lợi dụng những đặc điểm không giống nhau về văn hóa, quan điểm về tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của các quốc gia, dân tộc có chủ quyền của Mỹ đã gây ra những mâu thuẫn trầm trọng ảnh hưởng đến an ninh quốc tế. Đó là tình trạng mất ổn định xã hội ở các nước Đông và Trung Âu dẫn đến các cuộc cách mạng màu sắc trong mấy năm gần đây, phá vỡ sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, đoàn kết dân tộc ở Nam Tư, Tiệp Khắc (hai quốc gia này đã không còn tên trên bản đồ thế giới), Liên Bang Nga…Và đang khuyến khích chủ nghĩa ly khai ở Tây Tạng, Tân Cương (Trung Quốc), Chéc-xni-a (Nga), Cô-xô-vô (Xéc-bi-a)… nhằm làm giảm đi đáng kể sức mạnh của các quốc gia được Mỹ coi là “đối thủ tiểm tàng”. Đặc biệt hơn, chính sách hai mặt trong ứng xử quốc tế của Mỹ đã làm cho các mâu thuẫn chủ yếu của thế giới đương đại có mặt trầm trọng hơn, đẩy nhân loại đứng trước thảm họa xung đột vũ trang cục bộ. Đó là xung đột tôn giáo, sắc tộc, nạn khủng bố quốc tế ở Trung Đông, châu Phi và châu Á. Chính sách bao vây, cấm vận và chính sách “cây gậy và củ cà rốt” của Mỹ đã làm cho nhiều quốc gia, dân tộc điêu đứng trước nạn nội chiến, đói nghèo, bệnh tật như ở vùng Sừng châu Phi, Cu-ba, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, Pa-ki-xtan, Sri-lan-ca…

Các báo cáo về tình hình nhân quyền của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, cũng như các đạo luật về nhân quyền dành cho các nước của Quốc hội Mỹ trong nhiều năm qua đã bị dư luận thế giới lên án là hành động hủy hoại hòa bình, hợp tác và phát triển.

Nhân quyền là thành quả phát triển của lịch sử lâu dài của cả nhân loại. Vấn đề nhân quyền ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, chế độ chính trị- xã hội, kinh tế và văn hoá. Đáng tiếc rằng, Mỹ và đồng minh lại phủ nhận tính đặc thù của quyền con người, đề cao tự do cá nhân, rêu rao học thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, rồi ngang nhiên can thiệp và công việc nội bộ, đe doạ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ các quốc gia có chủ quyền. Hành động ngạo mạn của Mỹ tự cho mình quyền phán quyết vấn đề nhân quyền ở các nước và lợi dụng dân chủ, nhân quyền để chống phần thế giới còn lại không giải quyết được vấn đề gì mà chỉ làm phức tạp thêm các vấn đề quốc tế. Nó đang đi ngược lại xu thế và huỷ hoại môi trường hoà bình, hợp tác và phát triển của thế giới đương đại.

 

Chủ Nhật, 21 tháng 7, 2024

Lạm bàn điệp khúc “không có thay đổi đáng kể”khi Hoa Kỳ đánh giá nhân quyền Việt Nam

 


Cứ dịp đầu mỗi năm, như thường lệ, Bộ Ngoại giao Mỹ lại lặp lại “điệp khúc” có tên gọi là “báo cáo nhân quyền”, đánh giá về tình hình nhân quyền tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có Việt Nam. Đây được xem là sản phẩm phát hành đều đặn hang năm trong gần 5 thập kỷ qua, Bộ Ngoại giao Mỹ đều đặn công bố các báo cáo. Ngày 22/4/2024, cơ quan này lại phát hành một báo cáo dài 59 trang, được chia thành 7 phần, đánh giá tình hình nhân quyền năm 2023  của Việt Nam. Thoạt nhìn tưởng công phu, nhưng đọc vào mới thấy, nó được chạy theo mô tuýp có sẵn, sản phẩm phản ánh một định kiến đóng khung về Việt Nam dưới góc nhìn thời chiến tranh lạnh, vô cùng phiến diện, thiếu khách quan, vô số thông tin sai sự thật.

Có thể nhìn tổng thể toàn bộ báo cáo, cho thấy:

Thứ nhất, mở đầu báo cáo là câu “Không có thay đổi đáng kể về tình hình nhân quyền ở Việt Nam trong năm qua”, báo hiệu rằng người đọc sẽ thấy Việt Nam chẳng có tiến bộ gì về nhân quyền, chẳng có nỗ lực nào đáng ghi nhận so với các năm trước đó. Chỉ bằng “định kiến” đã cho thấy, người phát hành báo cáo không muốn tiếp cận thông tin xác đáng ngoài “định kiến” đã được “sắp sẵn” trong đầu.

Thứ hai, trong phần 1, báo cáo này thống kê rằng tính đến 31/10/2023, Việt Nam đã bắt giữ 25 cá nhân và kết án 23 người đang thực hiện các quyền con người được quốc tế công nhận như quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp ôn hòa và lập hội. Những cá nhân này được Mỹ “định sẵn” là “ tù nhân lương tâm”, bất chấp họ vi phạm pháp luật gì, thậm chí trốn thuế hay tham gia vào các tổ chức phản động lưu vong chống phá đất nước  như Bùi Tuấn Lâm, Ngụy Thị Khanh hay Châu Văn Khảm… bị bắt giam và xét xử vì vi phạm pháp luật Việt Nam, song những người này lại được báo cáo “tẩy trắng” tội danh, gắn thêm yếu tố chính trị để đôn họ lên làm “tù nhân chính trị” hay “tù nhân lương tâm”. Đây rõ rang là sự đánh tráo khái niệm một cách lộ liễu để tôn vinh những đối tượng vi phạm pháp luật Việt Nam và cho họ núp dưới cái bóng “tù nhân chính trị” hay khoác cho họ cái áo “tù nhân lương tâm”.

Một điệp khúc nữa xuất hiện trong phần 2 (Tôn trọng tự do dân sự) cáo buộc Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet. Thực tế, theo Bộ Thông tin và Truyền thông thống kê rằng, tính đến tháng 9/2022, Việt Nam có khoảng 70 triệu người dùng internet; gần 76 triệu người sử dụng mạng xã hội, tăng gần 10 triệu người trong vòng 1 năm (tương đương 73,7% dân số). Nhờ đó, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên toàn thế giới, đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Người dùng Việt Nam dành trung bình tới gần 7 giờ mỗi ngày để tham gia các hoạt động liên quan tới internet. Tỷ lệ người dùng sử dụng internet hàng ngày lên tới 94%. Internet đã có mặt ở mọi nơi, từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, biên giới, hải đảo. Nếu bị hạn chế nghiêm trọng như báo cáo mô tả thì tại sao internet ở Việt Nam lại có thể phát triển với tốc độ nhanh chóng như vậy?

Trên đây chỉ là hai trong vô số các điệp khúc mà các báo cáo về tình hình nhân quyền ở Việt Nam lặp đi lặp lại sau mỗi năm.

Khi xem báo cáo của Mỹ về tình hình nhân quyền năm 2023 ở một số quốc gia có cùng hệ tư tưởng với Việt Nam, ví dụ như Cuba, Triều Tiên hay Venezuela, ta có thể thấy sự giống nhau đến kỳ lạ, từ câu mở đầu báo cáo cho tới những nhận xét mang tính quy chụp.

Nếu Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tiếp tục dựa trên những nguồn tin không chính thống, dựa trên những cá nhân và tổ chức thiếu thiện chí, thì dự báo rằng báo cáo năm 2024, năm 2025 và về sau nữa, câu mở đầu vẫn sẽ là điệp khúc “không có thay đổi đáng kể”.

 

Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2024

Thấy gì qua các Báo cáo Tự do tôn giáo của Hoa Kỳ hàng năm


Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) có vai trò là tổ chức theo dõi, giám sát vấn đề tự do tôn giáo quốc tế, có quyền lập danh sách các nước trong diện “Cần được quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo (CPC)” để đề nghị Bộ Ngoại giao Mỹ quyết định. Bề ngoài nó được xem như tổ chức hoạt động độc lập với chính phủ Mỹ, thành lập trên cơ sở “Đạo luật Tự do tín ngưỡng quốc tế - HR.2431” và do Tổng thống Mỹ ký, ban hành ngày 27-10-1998. Cơ cấu tổ chức của USCIRF gồm 10 thành viên được bổ nhiệm bởi Tổng thống Mỹ và lãnh đạo của hai đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ trong lưỡng viện Mỹ.

Đánh giá về tổ chức này, điều đầu tiên ai cũng thấy là bản chất hai mặt của USCIRF. Từ khi được thành lập đến nay, USCIRF bề ngòai vận động, tiêu xúc với thành phần chống phá Nhà nước, USCIRF luôn đưa ra những đề nghị thiếu thiện chí, gây căng thẳng trong đối thoại, trao đổi về tình hình tôn giáo và liên tục đều gây sức ép với ta đòi thả tự do cho số đối tượng cực đoan, chống đối trong các tôn giáo có hoạt động vi phạm pháp luật đang thi hành án phạt tù mà họ cho là “tù nhân lương tâm”, “tù nhân tôn giáo”.

 

Bản chất “hai mặt” của USCIRF cho thấy, rõ ràng USCIRF là công cụ để Mỹ và các thế lực thù địch tiến hành các hoạt động chống phá nước ta về vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do tôn giáo”, công khai can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, lấy vấn đề “tự do tôn giáo” để gây sức ép, để “mặc cả”, đánh đổi vấn đề chính trị với lợi ích kinh tế. USCIRF đã cố tình áp đặt những định kiến chủ quan của họ để đưa ra những nhận xét sai lệch, thiếu khách quan về tình hình tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

Xuất phát từ định  kiến này, USCIRF luôn tận dụng mọi cơ hội vào Việt Nam để khai thác thông tin từ than nhân số bị bắt giũ cải tạo.

Trong các lần gặp gỡ số chức sắc, nhà tu hành, đoàn USCIRF đã công khai bày tỏ quan điểm sẵn sàng tài trợ bất hợp pháp cho số này hoạt động trở thành “ngọn cờ” chống đối trong tôn giáo, thậm chí là khuyến khích họ hoạt động độc lập, thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nước. Ngược lại, được sự khích lệ, hứa hẹn bảo trợ sau mỗi lần tiếp xúc với đoàn USCIRF, các đối tượng chống đối tích cực cung cấp thông tin, tài liệu vu cáo, xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống Việt Nam.

 

Thực tiễn cho thấy, Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc trong việc đảm bảo tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, chưa bao giờ các tôn giáo có điều kiện phát triển như hiện nay. Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo pháp luật, đồng thời nghiêm cấm hoạt động lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và của công dân. Những trường hợp bị bắt, xử lý hình sự, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống người thi hành công vụ, cản trở hoạt động của các cơ quan Nhà nước, của người dân, truyền bá mê tín dị đoan, phát triển tà đạo hoặc các tôn giáo chưa được Nhà nước công nhận, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, trật tự. Đó là việc bắt, xử lý các đối tượng về hành vi phạm tội theo quy định của Bộ luật Hình sự chứ không hề có chuyện bắt vì hoạt động tôn giáo, không có chuyện chính quyền “đàn áp, bắt bớ” trái pháp luật các tín đồ, chức sắc tôn giáo như USCIRF đã nêu trong báo cáo.

Thiết nghĩ, USCIRF với cái tên mang tính nhân quyền “Uỷ ban Tự do Tôn giáo quốc tế của Hoa Kỳ” thì cần phát ngôn và hành động cho đúng với danh xưng đó, cần có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan, đúng sự thật về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, tránh đưa ra những đánh giá sai lệch, xuyên tạc. 

 

Thứ Ba, 16 tháng 7, 2024

“Điệp khúc” sai lệch về nhân quyền ở Việt Nam

 


Ngày 22/4/2024, Bộ Ngoại giao Mỹ lại công bố báo cáo nhân quyền năm 2023 và tiếp tục đưa ra những thông tin thiếu khách quan về tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Trong báo cáo 59 trang đề cập đến vấn đề nhân quyền ở Việt Nam năm 2023, Bộ Ngoại giao Mỹ tiếp tục cho rằng “chính quyền Việt Nam vẫn không có tiến bộ về nhân quyền”, trong đó xoáy vào chỉ trích, phê phán, cho rằng Việt Nam bắt, giam giữ những người vì hoạt động chính trị hoặc nhân quyền, vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội...Trong báo cáo này, những kẻ vi phạm pháp luật đã được đưa ra xét xử và tuyên phạt với những bản án đúng người, đúng tội như Lê Anh Hùng, Phan Tất Thành... đều là “nhà hoạt động nhân quyền” với quy kết áp đặt như “Chính phủ Việt Nam tiếp tục sử dụng các điều luật về an ninh quốc gia và những quy định mơ hồ khác của Bộ luật Hình sự để bỏ tù các nhà hoạt động bày tỏ quan điểm chính trị một cách ôn hòa trên mạng và các nhà bất đồng chính kiến”...

Thực tế, Việt Nam luôn luôn nỗ lực trong bảo đảm quyền con người. Đây là quan điểm, chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam, được quy định trong Hiến pháp, pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ, được cụ thể trong các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam luôn xem con người là trung tâm, là động lực của quá trình Đổi mới và công cuộc phát triển đất nước và luôn nỗ lực vì mục tiêu nâng cao đời sống, quyền thụ hưởng của người dân, không để ai bị bỏ lại phía sau.

Các trường hợp bị bắt, xử lý hình sự như trên đều được cơ quan báo chí công khai, nếu có thắc mắc thì thông qua các cơ chế đối thoại, trrao đổi song phương, đa phương, Việt Nam đều thẳng thắn chia sẻ,, cung cấp thông tin mà phía Mỹ quan tâm kịp thời. Tuy nhiên, đúng như báo chí phản ánh, và chính những cá nhân, tổ chức phản động khoe khoang,  nhân viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ thường xuyên tiếp xúc với nhuwnxgg thành phần này, lấy thông tin một chiều,, thiếu khách quan từ họ, không thực sự cầu thị tham  khảo, đối chiếu thông tin chính thống.

Không phải tự dung dư luận Việt Nam luôn bức xúc, việc Mỹ tự cho mình quyền đi phán xét hay áp đặt vấn đề nhân quyền lên các quốc gia khác trong khi nhiều vấn đề ngay nội tại của đất nước Mỹ cũng vi phạm nghiêm trọng về quyền con người, quyền công dân thì không được nhắc đến. Những vấn đề về phân biệt chủng tộc, sắc tộc, màu da, phân biệt giàu nghèo, nạn bạo lực, các vụ xả súng giết chết nhiều người... là những gì mà hàng triệu người dân Mỹ đang phải đối diện hằng ngày thì không được họ đề cập trong bản báo cáo về nhân quyền hằng năm?!

Thời gian qua, Việt Nam đã nỗ lực rất lớn trong bảo đảm quyền con người, nhất là trong hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo các Công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Cụ thể như trong Báo cáo quốc gia UPR chu kỳ IV của Việt Nam đã được tiến hành một cách nghiêm túc, toàn diện, có sự tham gia đầy đủ của các bên liên quan cũng như các cơ quan Liên hợp quốc tại Việt Nam. Trong đó đã dẫn chứng cụ thể những thành tựu của Việt Nam về giảm nghèo đa chiều bền vững, đảm bảo an sinh xã hội (hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp...), nâng cao đời sống của người dân, đảm bảo quyền cho các nhóm dễ bị tổn thương (phụ nữ, trẻ em, người nghèo, người cao tuổi, người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người bị nhiễm HIV/AIDS...) và các hoạt động đối thoại, hợp tác quốc tế và khu vực về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia. …

Không chỉ nỗ lực thực hiện các cam kết quốc tế về bảo đảm quyền con người, thời gian qua, Việt Nam đã luôn chủ động, tích cực và có nhiều đóng góp trong lĩnh vực thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trong khu vực và trên thế giới. Minh chứng rõ nét nhất cho điều đó là thông qua mức độ tín nhiệm với tỷ lệ phiếu đồng thuận rất cao khi Việt Nam ứng cử tham gia thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025 và đã có nhiều sáng kiến về bảo đảm quyền con người, quyền lợi của các nước đang phát triển, quyền của các nhóm yếu thế... được cộng đồng quốc tế và các quốc gia ghi nhận, đánh giá cao. Đó là những minh chứng điển hình về những thành tựu trong bảo đảm quyền con người của Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Đáng tiếc thay, Bộ Ngoại giao Mỹ lại phớt lờ những sự thật trên khi chỉ thu thập thông tin từ những nguồn không chính thống, từ những cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí, chống phá Việt Nam để từ đó có những báo cáo, đánh giá sai lệch, làm ảnh hưởng đến uy tín và can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.

 

Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2024

Về “cái gọi là tù nhân lương tâm tôn giáo” trong báo cáo của USCIRF

 


Báo cáo của USCIRF đã đưa ra nhiều nhận định sai lệch về tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam. Đặc biệt, phần nói về “các tù nhân lương tâm tôn giáo” cho rằng các điều kiện đối với số này vẫn rất tồi tệ vào năm 2023 “bất chấp một số vụ thả người nổi bật”, đồng thời lấy dẫn chứng của một loạt những kẻ bị xử lý vì các tội phạm hình sự thông thường và gán ghép chúng vào lý do tôn giáo. Đây là chiêu bài hết sức cũ của không chỉ USCIRF mà còn của các thế lực khác lợi dụng quyền tự do, dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để chống phá Việt Nam.

   - USCIRF báo cáo rằng Y Khiu Nie và Y Si Eban bị giam giữ một phần do tham gia Hội nghị Tự do Tôn giáo Đông Nam Á vào tháng 11/2022. Thực tế, chúng bị bắt giữ không phải vì lý do tôn giáo mà vì vi phạm pháp luật quốc gia, bao gồm cả việc tổ chức các hoạt động bất hợp pháp gây rối trật tự công cộng.

   - Báo cáo USCIRF đề cập Nay Y Blang bị bắt giữ vì truyền giáo và tổ chức các hoạt động tôn giáo bất hợp pháp. Tuy nhiên, Nay Y Blang bị bắt giữ vì các hoạt động gây rối trật tự xã hội và vi phạm quy định pháp luật, không liên quan đến việc thực hành tôn giáo của hắn ta.

   - USCIRF nêu rằng Tô Hoàng Chương, Danh Minh Quang và Thạch Cương bị bắt giữ vì vi phạm Điều 331 của Bộ luật Hình sự Việt Nam, cho rằng ly do bắt vì “Ba cá nhân này đã báo cáo việc vi phạm quyền của họ với cộng đồng quốc tế và phổ biến các tài liệu quốc tế về quyền của các dân tộc thiểu số và quyền tự do tôn giáo cho các thành viên cộng đồng để thông báo cho họ về các quyền của họ”. Thực tế Điều 331 là một điều luật hình sự của Bộ luật Hình sự Việt Nam, quy định về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, chứ không phải vì lý do tôn giáo. Theo Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Trà Vinh, từ năm 2020 đến nay, Thạch Cương, Tô Hoàng Chương sử dụng mạng xã hội đăng tải, chia sẻ bài viết, video và livestream nhiều thông tin sai sự thật, giả mạo, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân. Trước đó, Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Trà Vinh đã 2 lần xử phạt vi phạm hành chính đối với Thạch Cương về hành vi đăng thông tin sai sự thật, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức theo quy định tại điểm a, khoản 1, Điều 101, Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ngày 3/2/2020 của Chính phủ và yêu cầu gỡ thông tin sai sự thật trên trang cá nhân. Cơ quan chức năng cũng xử phạt vi phạm hành chính 1 lần đối với Tô Hoàng Chương về hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin sai sự thật trên mạng xã hội.Danh Minh Quang sử dụng Facebook để viết, đăng tải, chia sẻ công khai 51 bài viết, hình ảnh với nội dung có tính chất tiêu cực, tuyên truyền xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội tại địa phương.

   - USCIRF cho rằng Nguyễn Hoàng Nam bị bắt chỉ “thường xuyên đăng bài về các nghi lễ tôn giáo và hoạt động từ thiện của Phật giáo Hòa Hảo và Rian Thih bị  kết án vì là “một nhà lãnh đạo tôn giáo “Tin lành Dega”, thực tế số này thường xuyên  đăng bài trên mạng xã hội, gây rối trật tự công cộng và kích động chia rẽ chính sách đoàn kết tôn giáo, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước liên quan thực hành quyền tự do tín ngưỡng của người dân.

Tuy nhiên, không phải không có điểm tích cực trong báo cáo của USCIRF khi mà đã công nhận việc thả tự do cho Nguyễn Bắc Truyển và Lê Đức Đông, ghi nhận rằng điều này cho thấy sự cải thiện trong chính sách của chính phủ Việt Nam về tự do tôn giáo. Thật ra, việc trả tự do cho các đối tượng này là minh chứng cho thấy chính phủ Việt Nam luôn xem xét và giải quyết các trường hợp tù nhân một cách nhân đạo, phù hợp với tình hình sức khỏe và các yếu tố khác.

Nhìn chung, các trường hợp mà USCIRF nêu ra đều đã có bằng chứng rõ ràng về các hành vi phạm tội, các đối tượng đều thừa nhận hành vi của mình trước tòa hoặc trước các cơ quan pháp luật; thế nhưng qua những ngôn từ lạc điệu, USCIRF lại biến hóa chúng thành các vụ việc liên quan đến tôn giáo

Những cáo buộc của USCIRF và thực tế tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam

 


Các cáo buộc của Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) liên quan đến tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam đã được nêu ra với các lập luận rằng chính phủ Việt Nam giám sát, quấy rối, giam giữ và ngăn cản các cộng đồng tôn giáo chưa đăng ký thực hiện quyền tự do tôn giáo của họ. Đây là các cáo buộc thiếu cơ sở và không phản ánh đúng thực tế.

Hiến pháp Việt Nam khẳng định rằng công dân "có thể theo bất kỳ tôn giáo nào hoặc không theo tôn giáo nào" và rằng "tất cả các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật." Điều này cho thấy, về mặt pháp lý, Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2018 của Việt Nam được ban hành nhằm cụ thể hóa các quyền này, cung cấp cơ chế bảo vệ cho các tổ chức tôn giáo, và đảm bảo rằng các hoạt động tôn giáo được diễn ra trong khuôn khổ pháp luật.

Trong năm 2023, chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm thúc đẩy tự do tôn giáo và hỗ trợ các tổ chức tôn giáo. Một ví dụ rõ ràng là việc tổ chức các sự kiện tôn giáo lớn như Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2023 tại Hà Nam với sự tham gia của hàng nghìn Phật tử và khách mời quốc tế, bao gồm nhiều chức sắc tôn giáo và các đại diện từ nhiều quốc gia khác nhau. Sự kiện này không chỉ thể hiện sự tự do tôn giáo mà còn là minh chứng cho sự hỗ trợ tích cực của chính phủ Việt Nam đối với các hoạt động tôn giáo lớn.

USCIRF cho rằng Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2018 hạn chế tự do tôn giáo bằng cách yêu cầu các nhóm tôn giáo phải đăng ký để hoạt động hợp pháp và phải nhận được sự chấp thuận cho tất cả các hoạt động trong năm tới. Tuy nhiên, việc đăng ký không phải là một hình thức kiểm soát mà là một cơ chế bảo vệ cho các tổ chức tôn giáo, giúp họ có tư cách pháp nhân và được hưởng các quyền lợi hợp pháp. Việc này cũng giúp chính phủ quản lý và hỗ trợ các tổ chức tôn giáo một cách hiệu quả hơn.

Một ví dụ cụ thể là việc công nhận 46 tổ chức tôn giáo và 16 tôn giáo vào tháng 8 năm 2023. Việc công nhận này chứng minh rằng chính phủ Việt Nam không chỉ tôn trọng quyền tự do tôn giáo mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tôn giáo hoạt động và phát triển.

USCIRF cáo buộc rằng việc thực thi Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2018 không đồng đều trên toàn quốc, với các nhóm tôn giáo ở khu vực nông thôn và các tỉnh có nhiều dân tộc thiểu số, như Tây Nguyên và An Giang, gặp phải nhiều khó khăn hơn. Tuy nhiên, các báo cáo từ các tổ chức tôn giáo độc lập và chính phủ Việt Nam cho thấy rằng các nỗ lực để bảo vệ quyền tự do tôn giáo đã được áp dụng trên toàn quốc, bao gồm cả các khu vực có đông dân tộc thiểu số.

Chính phủ hỗ trợ xây dựng và bảo trì các cơ sở tôn giáo tại các khu vực nông thôn và vùng sâu, vùng xa. Chẳng hạn, vào năm 2023, chính phủ đã hỗ trợ xây dựng nhiều nhà thờ, chùa chiền và các cơ sở tôn giáo khác tại Tây Nguyên, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân địa phương thực hành tôn giáo.

USCIRF cũng chỉ trích rằng các nhóm tôn giáo không nhận được giải thích rõ ràng khi đơn đăng ký của họ bị từ chối hoặc không được chấp nhận. Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam đã có các cơ chế giải trình và giải quyết khiếu nại cho các tổ chức tôn giáo. Ví dụ, Ủy ban Tôn giáo Chính phủ đã thực hiện các cuộc đối thoại với nhiều tổ chức tôn giáo để lắng nghe và giải quyết các vấn đề mà họ gặp phải trong quá trình đăng ký và hoạt động. Trong năm 2023, chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp để thúc đẩy tự do tôn giáo và hỗ trợ các tổ chức tôn giáo. Một trong những biện pháp đó là việc tổ chức các cuộc họp định kỳ với các tổ chức tôn giáo để lắng nghe ý kiến của họ và giải quyết các vấn đề mà họ gặp phải. Chính phủ cũng đã hỗ trợ tài chính và cơ sở vật chất cho nhiều hoạt động tôn giáo, bao gồm cả việc tổ chức các sự kiện tôn giáo lớn như Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2023.

USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam quấy rối và giam giữ các cộng đồng tôn giáo chưa đăng ký. Tuy nhiên, thực tế cho thấy rằng chính phủ Việt Nam tôn trọng quyền tự do tôn giáo của tất cả các nhóm tôn giáo, bao gồm cả các nhóm chưa đăng ký. Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp để bảo vệ quyền lợi của các tổ chức tôn giáo này và tạo điều kiện cho họ hoạt động một cách hợp pháp.

Một ví dụ cụ thể là việc chính phủ cho phép nhiều tổ chức tôn giáo chưa đăng ký tổ chức các hoạt động tôn giáo mà không gặp phải sự cản trở nào. Chính phủ cũng đã tổ chức nhiều cuộc đối thoại với các tổ chức này để tìm ra các giải pháp hợp lý và tạo điều kiện cho họ hoạt động một cách hợp pháp.

USCIRF chỉ trích rằng "Sách trắng" về chính sách tôn giáo của Việt Nam không phản ánh đúng thực tế và vi phạm quyền tự do tôn giáo. Tuy nhiên, "Sách trắng" này là một nỗ lực của chính phủ Việt Nam để minh bạch hóa các chính sách tôn giáo và cung cấp thông tin đầy đủ về tình hình tôn giáo trong nước. "Sách trắng" đã được xây dựng dựa trên các cuộc tham vấn với nhiều tổ chức tôn giáo và chuyên gia, và phản ánh sự cam kết của chính phủ trong việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo của người dân.

Những cáo buộc của USCIRF về tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam vẫn mang tính áp đặt và phiến diện, một chiều như bao năm qua!

Thứ Năm, 11 tháng 7, 2024

Các khuyến nghị vô căn cứ của USCIRF

 


USCIRF đã đưa ra sáu khuyến nghị với chính phủ Mỹ liên quan đến tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam. Các khuyến nghị này bao gồm việc đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt (CPC), yêu cầu Việt Nam sửa đổi Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2018, đánh giá các vi phạm theo thỏa thuận năm 2005 giữa Mỹ và Việt Nam, tạo điều kiện cho các cơ quan Liên Hợp Quốc tiếp cận Việt Nam, và giám sát tình trạng của các tù nhân lương tâm tôn giáo. Đây chẳng khác nào một động thái khiêu khích và can thiệp công việc nội bộ Việt Nam của USCIRF

USCIRF khuyến nghị chính phủ Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách CPC dựa trên các cáo buộc vi phạm tự do tôn giáo. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chính quyền Việt Nam đã có những nỗ lực rõ rệt trong việc cải thiện tình hình tự do tôn giáo. Việt Nam đã hợp tác chặt chẽ với nhiều tổ chức tôn giáo và quốc tế để đảm bảo quyền tự do tôn giáo của người dân. Ví dụ, việc bổ nhiệm đại diện tòa thánh Vatican tại Việt Nam là một bước tiến lớn, thể hiện sự tôn trọng và hợp tác giữa chính phủ Việt Nam và cộng đồng Công giáo.

Các sự kiện tôn giáo lớn như Đại lễ Phật đản Vesak Liên Hợp Quốc đã được tổ chức tại Việt Nam với sự tham gia của hàng nghìn Phật tử và khách mời quốc tế. Đây là minh chứng rõ ràng cho sự tự do tôn giáo và sự hỗ trợ của chính phủ Việt Nam đối với các hoạt động tôn giáo.

USCIRF đề xuất Việt Nam cần sửa đổi Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2018 để tuân thủ các tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế, bao gồm việc làm cho việc đăng ký chỉ cần thiết để duy trì tư cách pháp nhân. Tuy nhiên, Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo 2018 của Việt Nam đã được xây dựng dựa trên các nguyên tắc cơ bản về tự do tôn giáo và đã trải qua quá trình tham vấn rộng rãi với các tổ chức tôn giáo và quốc tế. Luật này không ngăn cấm các hoạt động tôn giáo mà chỉ yêu cầu việc đăng ký để đảm bảo quyền lợi và an ninh cho các nhóm tôn giáo.

Việc đăng ký không phải là một hình thức kiểm soát mà là một cơ chế để bảo vệ các tổ chức tôn giáo, giúp họ có tư cách pháp nhân và được hưởng các quyền lợi hợp pháp. Việc này cũng giúp chính phủ quản lý và hỗ trợ các tổ chức tôn giáo một cách hiệu quả hơn.

USCIRF đề xuất đánh giá xem liệu Việt Nam có vi phạm các điều khoản của thỏa thuận năm 2005 về tự do tôn giáo hay không. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, kể từ khi ký kết thỏa thuận này, Việt Nam đã thực hiện nhiều biện pháp cải thiện tình hình tự do tôn giáo và đã có nhiều tiến bộ được ghi nhận. Việc hợp tác với Vatican và việc tổ chức nhiều sự kiện tôn giáo lớn đều là minh chứng cho những nỗ lực này.

USCIRF yêu cầu Việt Nam cho phép các cơ quan đặc biệt của Liên Hợp Quốc và nhân viên từ Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc được tiếp cận không giới hạn để giám sát và điều tra các vi phạm về tự do tôn giáo và nhân quyền. Tuy nhiên, Việt Nam đã nhiều lần khẳng định sự sẵn sàng hợp tác với các tổ chức quốc tế, bao gồm cả Liên Hợp Quốc. Việt Nam đã tham gia vào các cuộc kiểm tra định kỳ phổ quát về nhân quyền của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc và đã nhận được nhiều khuyến nghị mà Việt Nam đã chấp thuận và thực hiện.

USCIRF khuyến nghị chính phủ Mỹ chỉ đạo phái đoàn Mỹ tại Việt Nam giám sát và báo cáo tình trạng của các tù nhân lương tâm tôn giáo, và vận động cho sức khỏe cũng như việc phóng thích của họ. Tuy nhiên, chính quyền Việt Nam khẳng định rằng không có ai bị bắt giữ hay giam cầm chỉ vì lý do tôn giáo. Các vụ việc liên quan đến các cá nhân bị bắt giữ đều có liên quan đến các hành vi vi phạm pháp luật, chứ không phải do hoạt động tôn giáo của họ.

USCIRF khuyến nghị Quốc hội Mỹ ủng hộ các nỗ lực lập pháp nhằm cải thiện tự do tôn giáo ở Việt Nam, bao gồm Đạo luật Nhân quyền Việt Nam (H.R. 3172). Tuy nhiên, cần lưu ý rằng các biện pháp lập pháp từ bên ngoài có thể không phản ánh đúng thực tế tình hình tôn giáo tại Việt Nam và có thể gây ra những tác động tiêu cực không mong muốn. Thay vào đó, việc hỗ trợ và khuyến khích các đối thoại xây dựng giữa Việt Nam và các tổ chức tôn giáo quốc tế sẽ mang lại hiệu quả tích cực hơn.

Những khuyến nghị của USCIRF đối với chính phủ Mỹ về tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam thiếu căn cứ và không phản ánh đúng thực tế. Chính phủ Việt Nam đã có những nỗ lực rõ rệt trong việc cải thiện tình hình tự do tôn giáo, và việc đưa ra các cáo buộc thiếu cơ sở có thể gây ra những hiểu lầm và ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ song phương giữa Việt Nam và Mỹ.


 

Thứ Ba, 9 tháng 7, 2024

Phản bác cáo buộc của USCIRF về tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam

 


Trong một loạt các cáo buộc nhằm vào Việt Nam, USCIRF đặc biệt nhấn mạnh vào việc chính quyền Việt Nam can thiệp vào các hoạt động tôn giáo của cộng đồng Công giáo, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo và các nhóm tôn giáo thiểu số khác. USCIRF cho rằng mặc dù đã có thỏa thuận giữa Vatican và Việt Nam về việc bổ nhiệm đại diện tòa thánh tại Việt Nam, nhưng chính quyền vẫn kiểm soát và sách nhiễu các lãnh đạo tôn giáo, đồng thời ép buộc các tôn giáo không đăng ký tham gia vào các tổ chức do nhà nước kiểm soát.

Thứ nhất, quan hệ giữa Việt Nam và Vatican và tình hình của Công giáo

Việc bổ nhiệm đại diện tòa thánh tại Việt Nam là một bước tiến quan trọng trong quan hệ giữa Việt Nam và Vatican, thể hiện sự tôn trọng và hợp tác giữa hai bên. Thỏa thuận này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo của cộng đồng Công giáo tại Việt Nam mà còn cho thấy cam kết của chính quyền Việt Nam trong việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo.

USCIRF cho rằng chính quyền Việt Nam kiểm soát các lãnh đạo Công giáo và sách nhiễu các linh mục, đặc biệt là ở các khu vực dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các hoạt động tôn giáo của cộng đồng Công giáo tại Việt Nam vẫn diễn ra bình thường và không gặp phải sự can thiệp đáng kể từ phía chính quyền.

Ví dụ, trong năm 2023, có hàng trăm sự kiện tôn giáo lớn được tổ chức bởi cộng đồng Công giáo trên khắp cả nước, từ các thánh lễ đến các hoạt động từ thiện và giáo dục. Chính quyền địa phương đã tạo điều kiện và hỗ trợ các sự kiện này, đảm bảo an ninh và trật tự cho người tham gia.

Số liệu thống kê cho thấy số lượng giáo dân Công giáo tại Việt Nam đã tăng đều qua các năm, với khoảng 7 triệu người vào năm 2023, chiếm khoảng 7% dân số cả nước. Các giáo xứ và nhà thờ mới tiếp tục được xây dựng và mở rộng để đáp ứng nhu cầu tôn giáo của người dân.

Thứ hai, vụ việc tại Kon Tum và các linh mục người H'mông

Về vụ việc tại tỉnh Kon Tum và các linh mục người H'mông, các thông tin mà USCIRF đưa ra thiếu sự xác thực và không phản ánh đầy đủ bối cảnh. Theo báo cáo từ các nguồn tin địa phương, sự can thiệp của chính quyền chủ yếu liên quan đến việc đảm bảo tuân thủ các quy định về an ninh và trật tự công cộng, chứ không phải là sự kiểm soát hay sách nhiễu có hệ thống đối với các hoạt động tôn giáo.

Thứ ba, tình hình của các tôn giáo khác: Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo và các nhóm tôn giáo thiểu số

USCIRF cáo buộc chính quyền Việt Nam ép buộc các tôn giáo như Cao Đài và Phật giáo Hòa Hảo tham gia vào các tổ chức do nhà nước kiểm soát và ngăn cản họ thực hành đức tin một cách tự do. Tuy nhiên, thực tế cho thấy chính quyền Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do tôn giáo và tạo điều kiện cho các hoạt động tôn giáo diễn ra một cách bình thường.

Ví dụ, trong năm 2023, cộng đồng Cao Đài đã tổ chức nhiều sự kiện tôn giáo lớn mà không gặp phải sự cản trở từ phía chính quyền. Số liệu từ Ban Tôn giáo Chính phủ cho thấy có hơn 2.5 triệu tín đồ Cao Đài và hàng trăm đền thờ Cao Đài trên khắp cả nước. Các hoạt động tôn giáo của cộng đồng này được thực hiện một cách công khai và nhận được sự hỗ trợ từ phía chính quyền địa phương.

Tương tự, cộng đồng Phật giáo Hòa Hảo cũng tổ chức nhiều hoạt động tôn giáo và từ thiện mà không gặp phải sự can thiệp đáng kể. Chính quyền đã hỗ trợ các hoạt động bảo tồn và phát triển văn hóa tôn giáo của cộng đồng này, đảm bảo họ có điều kiện tốt nhất để thực hành đức tin.

Thứ tư, vụ việc tại An Giang mà USCIRF đề cập liên quan đến việc cấm cản tổ chức lễ kỷ niệm ngày sinh của người sáng lập Phật giáo Hòa Hảo. Tuy nhiên, theo báo cáo từ các nguồn tin địa phương, lý do chính quyền đưa ra quyết định này là để đảm bảo an ninh và trật tự công cộng trong bối cảnh có những nguy cơ an ninh tiềm tàng. Không có bằng chứng cho thấy quyết định này nhằm mục đích hạn chế quyền tự do tôn giáo của cộng đồng Phật giáo Hòa Hảo.

Thứ năm, tình hình của các nhóm tôn giáo khác: Pháp Luân Công và Hội Thánh Đức Chúa Trời

USCIRF cáo buộc chính quyền Việt Nam ngăn cản các hoạt động của nhóm Pháp Luân Công. Tuy nhiên, cần phải nhìn nhận rằng, các hoạt động của Pháp Luân Công tại Việt Nam đã gây ra nhiều tranh cãi và có những dấu hiệu vi phạm pháp luật. Chính quyền Việt Nam chỉ can thiệp khi có các bằng chứng cụ thể về các hoạt động vi phạm pháp luật hoặc gây mất trật tự công cộng. Năm 2023, có một số vụ việc liên quan đến việc phát tán tài liệu Pháp Luân Công không được phép và tổ chức các buổi tụ tập trái phép. Chính quyền đã xử lý các vụ việc này theo đúng quy định pháp luật, đảm bảo quyền lợi và an ninh cho người dân.

Về Hội Thánh Đức Chúa Trời, USCIRF cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam ép buộc các thành viên từ bỏ đức tin của mình. Tuy nhiên, thực tế cho thấy các hoạt động của Hội Thánh Đức Chúa Trời tại Việt Nam thường gây ra nhiều vấn đề về an ninh và trật tự công cộng. Chính quyền chỉ can thiệp khi có bằng chứng cụ thể về các hoạt động vi phạm pháp luật hoặc gây mất trật tự. Năm 2023, một số thành viên của Hội Thánh Đức Chúa Trời đã bị bắt giữ và xử lý do có hành vi vi phạm pháp luật, như tuyên truyền mê tín dị đoan, lừa đảo và kích động chống đối chính quyền. Việc xử lý các trường hợp này hoàn toàn dựa trên cơ sở pháp luật và nhằm bảo vệ quyền lợi của người dân.

Những cáo buộc của USCIRF về việc chính quyền Việt Nam can thiệp và kiểm soát các hoạt động tôn giáo, sách nhiễu các lãnh đạo tôn giáo và ép buộc các nhóm tôn giáo tham gia vào các tổ chức do nhà nước kiểm soát là thiếu căn cứ và không phản ánh đúng thực tế. Thực tế cho thấy, chính quyền Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do tôn giáo của mọi người dân, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo diễn ra một cách bình thường. Các ví dụ và số liệu cụ thể trong năm 2023 cho thấy cộng đồng Công giáo, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo và các nhóm tôn giáo khác tại Việt Nam vẫn hoạt động một cách tự do và không gặp phải sự can thiệp đáng kể từ phía chính quyền.

Thứ Bảy, 6 tháng 7, 2024

Tự do báo chí ở Việt Nam và Mỹ

 


Báo cáo cáo buộc rằng chính quyền Việt Nam thường xuyên thẩm vấn, phạt tiền và truy tố các cá nhân vì phát ngôn bị coi là không chấp nhận được, và cấm mọi chỉ trích công khai đối với Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách nhà nước. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng Việt Nam có hệ thống pháp luật rõ ràng để xử lý các hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận nhằm mục đích xuyên tạc, bôi nhọ, hoặc gây rối trật tự công cộng. Các biện pháp này nhằm bảo vệ lợi ích công cộng và an ninh quốc gia.

Ví dụ, trường hợp Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (tên gọi khác là Mẹ Nấm) đã bị xử lý theo pháp luật vì các hoạt động phát tán thông tin sai lệch, kích động bạo lực và chống đối chính quyền. Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do ngôn luận của công dân, và những người vi phạm pháp luật đều được đảm bảo quyền được xét xử công bằng.

Báo cáo cáo buộc rằng Chính phủ Việt Nam gây ảnh hưởng đến các triển lãm, âm nhạc và các hoạt động văn hóa khác bằng cách yêu cầu nhiều giấy phép, cũng như kiểm duyệt hoặc hạn chế nội dung đối với thành viên báo chí và các phương tiện truyền thông khác. Thực tế, việc quản lý và cấp phép cho các hoạt động văn hóa, nghệ thuật là điều bình thường ở mọi quốc gia nhằm đảm bảo tính hợp pháp và phù hợp với quy định của pháp luật. Điều này không đồng nghĩa với việc hạn chế quyền tự do sáng tạo hay tự do ngôn luận.

Như đã nói, Việt Nam có một nền báo chí đa dạng và phát triển, với hàng trăm tờ báo, tạp chí và kênh truyền hình, cả nhà nước và tư nhân, hoạt động sôi nổi. Các phương tiện truyền thông này thường xuyên đưa tin, phản ánh nhiều góc độ khác nhau về các vấn đề xã hội, chính trị, kinh tế và văn hóa. Ví dụ, báo chí Việt Nam đã có nhiều bài viết phê bình, phản ánh các vấn đề nóng như tham nhũng, ô nhiễm môi trường và các vụ án lớn. Điều này cho thấy, truyền thông Việt Nam có quyền tự do phản ánh các vấn đề xã hội một cách đa chiều và công bằng.

Trong khi đó, các nước phương Tây, nhất là Mỹ vẫn luôn dùng cụm từ “tự do báo chí” để săm soi, chỉ trích, lên án những nước không phải là đồng minh đã vi phạm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận và từ đó họ chụp cho những quốc gia này cái mũ vi phạm dân chủ, nhân quyền... Dù lớn tiếng rêu rao như thế nhưng sự thật họ đã và đang cố tình tảng lờ một thực tế là ngay cả ở Mỹ cũng như phương Tây, nơi vẫn được gọi là “thế giới tự do”, tự do ngôn luận và tự do báo chí thì cũng chỉ là điều không tưởng. Khi đánh giá thực chất tự do ngôn luận, tự do báo chí ở phương Tây, ông Paul Sethe là nhà báo danh tiếng, đồng thời là nhà văn và nhà nghiên cứu khoa học xã hội ở Cộng hòa Liên bang Đức đã khẳng định: “Tự do báo chí ở các nước phương Tây là tự do phổ biến những ý kiến riêng của 200 người giàu có”.

Chưa hết, tự do báo chí ở Mỹ còn là việc các cơ quan chức năng đại diện cho giới tài phiệt ở quốc gia này có quyền tự do xâm hại đến quyền và lợi ích của người khác. Bằng chứng là vào những ngày đầu tháng 6 -2013, làng báo quốc tế xôn xao trước sự việc hãng AP kiện Bộ Tư pháp Mỹ vì đã nghe lén điện thoại và kiểm tra email của 20 phóng viên. Theo thông tin của AP, Bộ Tư pháp Mỹ đã “bí mật thu các cuộc điện thoại ở hơn 20 đường dây được phóng viên và văn phòng AP đăng ký, bao gồm cả điện thoại di động và cố định”. Phát biểu về sự việc này trên tờ Yahoo News, nhà sản xuất phim tài liệu Mỹ Robert Greenwald đã nhận định: “Đây là kết quả của các chính sách mà chính quyền Mỹ đang áp dụng. Điều này đã trở thành hệ thống. Đây không phải chỉ xảy ra một lần, không phải là một vụ tai nạn. Đây chính là một nỗ lực để khiến những nhà cung cấp thông tin phải giữ im lặng. Đây quả là một điều đáng tiếc”.

Trước đó, vào ngày 17-1-2005, ngay trước khi diễn ra lễ nhậm chức nhiệm kỳ thứ hai của mình, Tổng thống Mỹ George W.Bush đã nhận được một “món quà” từ các quan chức báo chí. Kênh truyền hình lớn nhất nước Mỹ CBS đã quyết định sa thải 4 phóng viên dám cả gan xâm phạm đến quá khứ “vinh quang” trong quân ngũ của người đứng đầu Nhà Trắng. Lý do là ngày 8-9-2004, kênh truyền hình này đã phát một đoạn phim phóng sự trong chương trình “60 phút”, nói về thời gian phục vụ của ông George W.Bush tại căn cứ không quân thuộc lực lượng vệ binh quốc gia ở Texas hồi đầu những năm 70 của thế kỷ trước. Nội dung trong đó cho biết, Bush thường xuyên lẩn trốn việc tập luyện cũng như những đợt kiểm tra y tế bắt buộc. Ngoài ra, còn có một quan chức thân cận nào đó với Bush - cha đã gây áp lực với Killian để ông ta làm ngơ trước những vi phạm của Bush - con. Điều đáng nói ở đây là toàn bộ nội dung nêu trên được trích dẫn chính xác từ bản ghi chép công việc của Trung tá Jerry Killian, cựu chỉ huy của ông W.Bush ngày đó.

Tồi tệ hơn, với tư cách là nước đặt trụ sở của Liên hợp quốc (LHQ), lẽ ra Mỹ có nghĩa vụ không cản trở công việc của các nhà ngoại giao và quan chức nước ngoài hoặc công việc của các nhà báo đưa tin về hoạt động của LHQ, bất kể hoàn cảnh nào. Thế nhưng Washington đã từ chối cấp thị thực nhập cảnh cho các nhà báo Nga tháp tùng Ngoại trưởng Nga Serguei Lavrov đến trụ sở LHQ. Mặc dù trước đó, Bộ Ngoại giao Nga đã liên hệ nhiều lần và được Bộ Ngoại giao Mỹ đảm bảo rằng thị thực “sắp được cấp”. Tuy nhiên, đây là một lời nói dối trắng trợn. Vì thế, ngày 23-4-2023, trước khi lên đường đến New York để đảm nhiệm vai trò Chủ tịch luân phiên tại Hội đồng Bảo an LHQ, ông Serguei Lavrov đã chỉ trích Hoa Kỳ có một quyết định “hèn hạ”. Đồng thời, Ngoại trưởng Nga còn mỉa mai rằng, Hoa Kỳ đã cho thế giới thấy rõ giá trị của những tuyên bố của họ về tự do ngôn luận, tự do báo chí. 

Trơ trẽn và lố bịch hơn, nhân danh “tự do báo chí” kiểu Mỹ và phương Tây, họ tung ra các bài viết, clip, ảnh và đủ thứ tư liệu ngụy tạo, bịa đặt cùng những bình luận theo kiểu bất chấp sự thật nhằm gieo rắc hoang mang ở các quốc gia không phải là đồng minh. Đã vậy, họ còn ra sức tung hô, cổ xúy, ca ngợi những kẻ mà họ gán cho những mỹ từ như “nhà báo tự do”, “nhà đấu tranh dân chủ”, “nhà bất đồng chính kiến” mà thực ra đó là những người vi phạm pháp luật, đã bị pháp luật Việt Nam xử lý. Trong khi đó, Bộ luật United States Code năm 1953 của Mỹ đã bổ sung điều khoản cho phép xét xử việc đăng tải các tài liệu mà chính phủ cho là bí mật. Thế nhưng trong đạo luật này không hề có quy định như thế nào là bí mật. Như vậy, một khi thông tin bị chính phủ phán cho là bí mật thì chắc chắn nhà báo sẽ phải hầu tòa.

Từ những sự kiện nêu trên mọi người có thể dễ dàng thấy, trong khi chính quyền Mỹ cao giọng rao giảng về chuyện bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận thì chính các nhà cầm quyền Mỹ lại đang sử dụng quyền lực chính trị và sức mạnh của đồng USD để thao túng báo chí, phục vụ lợi ích của mình. Thật lố bịch và trơ trẽn, các thế lực thù địch còn lớn tiếng quy chụp rằng, ở Việt Nam không cho phép báo chí tư nhân là không có tự do ngôn luận, không có tự do báo chí. Thâm độc hơn, chúng còn lợi dụng các vụ, việc một số nhà báo có hành vi vi phạm pháp luật và đạo đức người làm báo bị xử lý để cho rằng, tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam bị hạn chế, thậm chí bị đàn áp… Từ đó, họ đòi Việt Nam phải tổ chức, quản lý báo chí theo “mô hình báo chí phương Tây”, đòi “tư nhân hóa báo chí” để biến báo chí ở Việt Nam thành công cụ phục vụ mưu đồ của họ.