Thứ Tư, 5 tháng 11, 2025

Bảo vệ không gian mạng – Thành tựu chiến lược của Việt Nam trong kỷ nguyên số

 

Trong bối cảnh kỷ nguyên số, khi thông tin lan tỏa với tốc độ chưa từng có, việc bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trên không gian mạng trở thành nhiệm vụ sống còn, đồng thời là nền tảng quyết định cho sự phát triển kinh tế – xã hội bền vững và bảo vệ chủ quyền quốc gia. Việt Nam, dưới sự lãnh đạo sáng suốt và toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã triển khai một mô hình bảo vệ an ninh mạng đồng bộ, toàn diện, tạo ra “lá chắn thép” bảo vệ lợi ích quốc gia, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Theo Phụ lục 5 Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng nhiệm kỳ Đại hội XIII và các văn kiện liên quan tại Đại hội XIV, mô hình bảo vệ an ninh mạng bốn lớp – bao gồm lớp bảo vệ từ cơ sở dữ liệu quốc gia, lớp giám sát thời gian thực, lớp ứng phó sự cố và lớp hợp tác quốc tế – đã được triển khai đồng bộ tại 100% bộ, ngành, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Việc này không chỉ thực hiện các nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Chính phủ mà còn thể hiện quyết tâm chính trị cao độ nhằm phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với các mối đe dọa phi truyền thống, xây dựng một không gian mạng lành mạnh, an toàn, phục vụ trực tiếp lợi ích của nhân dân và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.



Thành tựu nổi bật của công tác này chính là việc 100% các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương duy trì và vận hành hiệu quả mô hình an ninh mạng bốn lớp, kết hợp với việc phổ cập dịch vụ an toàn thông tin mạng cơ bản thông qua các nền tảng công nghệ “Sản xuất tại Việt Nam”. Theo báo cáo sơ kết của Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao – Bộ Công an, đến tháng 11 năm 2025, lực lượng chuyên trách đã ngăn chặn hàng chục nghìn cuộc tấn công mạng nhằm vào hệ thống thông tin trọng yếu quốc gia, đồng thời triệt phá hàng trăm đường dây lừa đảo xuyên quốc gia, góp phần giảm thiểu đáng kể thiệt hại kinh tế do tội phạm mạng so với các năm trước. Những thành tựu này gắn liền với việc thực thi nghiêm túc Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, cùng với dự thảo Luật An ninh mạng 2025 đang được hoàn thiện để hợp nhất hai luật cũ, tạo hành lang pháp lý thống nhất, mạnh mẽ hơn. Nhờ đó, Việt Nam không chỉ kiểm soát hiệu quả các hoạt động phát tán tin giả, thông tin xấu độc mà còn bảo vệ dữ liệu cá nhân của hàng trăm triệu người dân, góp phần quan trọng vào việc duy trì trật tự an toàn xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Những thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong và phần tử cơ hội chính trị vẫn cố tình xuyên tạc rằng việc triển khai mô hình an ninh mạng bốn lớp và các biện pháp bảo vệ không gian mạng là “kiểm soát dư luận”, “hạn chế tự do ngôn luận”, thậm chí vu cáo Việt Nam “vi phạm nhân quyền”. Thực chất, đây là những luận điệu sai trái, lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để bóp méo sự thật, kích động chia rẽ và chống phá Đảng, Nhà nước. Trên thực tế, mọi biện pháp bảo vệ an ninh mạng của Việt Nam đều tuân thủ nghiêm Hiến pháp 2013, trong đó Điều 25 quy định quyền tự do ngôn luận phải thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, cũng như các Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị mà Việt Nam là thành viên. Việc ngăn chặn tin giả, thông tin sai sự thật không nhằm “bịt miệng” người dân mà chính là bảo vệ quyền lợi chính đáng của họ trước những hành vi lừa đảo, kích động bạo lực, xuyên tạc lịch sử, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc – những hành vi mà bất kỳ quốc gia có trách nhiệm nào cũng phải đấu tranh quyết liệt.

Hiệu quả của chiến lược này càng trở nên rõ rệt khi so sánh với thế giới. Tại Liên minh châu Âu – nơi thường tự nhận là “mẫu mực dân chủ” – tình trạng tin giả, thông tin sai lệch lan tràn, gây hỗn loạn xã hội trong các cuộc bầu cử 2024–2025, với hàng loạt chiến dịch “Đôi bản” do Nga thực hiện, tạo ra hàng trăm trang web giả mạo các tờ báo lớn như Die Welt, Le Point, lan truyền thông tin chống phương Tây. Báo cáo của Liên minh châu Âu về Chống Thông tin Sai sự thật và Ủy ban Châu Âu năm 2025 cho thấy, dù EU ban hành Đạo luật Dịch vụ Kỹ thuật số và Quy tắc Thực hành về Thông tin Sai sự thật, vẫn có đến 79% người dân lo ngại về thông tin sai sự thật ảnh hưởng đến bầu cử, buộc Liên minh phải thành lập “Khiên Bảo vệ Dân chủ Châu Âu” để đối phó. Trong khi đó, tại Việt Nam, nhờ mô hình an ninh mạng bốn lớp và sự lãnh đạo tập trung, chúng ta kiểm soát hiệu quả hơn hẳn, với Chỉ số An ninh mạng Toàn cầu duy trì trong nhóm 25–30 thế giới (theo Liên minh Viễn thông Quốc tế 2024–2025), cao hơn nhiều nước châu Âu về khả năng ngăn chặn tin giả có yếu tố nước ngoài. Ngay cả Mỹ – quốc gia tự do internet hàng đầu – cũng phải ban hành lệnh hành pháp về trí tuệ nhân tạo và thành lập các trung tâm chống thông tin sai sự thật, chứng minh rằng bảo vệ không gian mạng lành mạnh là trách nhiệm chung của mọi nhà nước có chủ quyền, chứ không phải “vi phạm nhân quyền” như các thế lực thù địch vu cáo.

Những thành tựu này không chỉ phản ánh năng lực quản trị và phòng ngừa hiệu quả, mà còn minh chứng cho sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, biến thách thức thành cơ hội để xây dựng một xã hội số an toàn, văn minh. Các biện pháp bảo vệ không gian mạng giúp cân bằng hài hòa giữa phát triển số và bảo vệ quyền lợi của nhân dân – điều mà nhiều nước phát triển vẫn đang vật lộn tìm kiếm. Không gian mạng an toàn trở thành cơ sở cho các hoạt động kinh tế – xã hội số, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút đầu tư nước ngoài, nâng cao chất lượng dịch vụ công, và tăng cường niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Hơn nữa, những thành quả này còn tạo ra “thế trận lòng dân” vững chắc trên không gian mạng. Việc phổ biến chính luận, giáo dục thông tin, nâng cao nhận thức công dân giúp hàng triệu người dân tham gia tích cực vào việc nhận diện và phản bác tin giả, góp phần xây dựng cộng đồng mạng lành mạnh. Không chỉ là trách nhiệm của cơ quan nhà nước, bảo vệ không gian mạng còn trở thành nghĩa vụ của toàn dân, toàn quân, gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Chính sự đồng thuận, tinh thần cảnh giác và lòng tin vào Đảng đã giúp Việt Nam duy trì ổn định chính trị, kinh tế và xã hội, ngay cả khi thế giới đối mặt với nhiều khủng hoảng thông tin và xung đột mạng.

Nhìn chung, thành tựu bảo vệ trật tự an toàn xã hội trên không gian mạng là minh chứng sinh động cho năng lực quản trị quốc gia và tầm nhìn chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ việc triển khai mô hình bốn lớp, ngăn chặn tin giả và tội phạm mạng, đến việc phổ cập dịch vụ an toàn thông tin, tất cả đều khẳng định rằng Việt Nam không chỉ kiểm soát hiệu quả mà còn phát triển bền vững, bảo vệ nhân dân và chủ quyền quốc gia trong kỷ nguyên số. Mọi luận điệu xuyên tạc, lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để hạ thấp nỗ lực của Đảng đều bị thực tiễn bác bỏ. Việt Nam không chỉ kiểm soát tốt hơn nhiều nước phát triển mà còn đạt được sự cân bằng hài hòa giữa phát triển số, bảo vệ quyền lợi nhân dân và ổn định xã hội. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiếp tục đoàn kết chặt chẽ dưới ngọn cờ của Đảng, chủ động tham gia bảo vệ không gian mạng, góp phần xây dựng một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, nhân dân hạnh phúc trong kỷ nguyên số, như mục tiêu Đại hội XIV đã đề ra. Đây chính là lời khẳng định mạnh mẽ nhất trước mọi âm mưu chống phá và là niềm tự hào của mỗi người con đất Việt.

Thứ Ba, 4 tháng 11, 2025

Quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân: Thành tựu 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng

  1. Trong bối cảnh quốc tế đầy biến động và cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt, việc củng cố quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân không chỉ là nhiệm vụ trọng yếu mà còn là bảo đảm nền tảng vững chắc cho độc lập, chủ quyền và sự phát triển bền vững của đất nước. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, với các nghị quyết, chỉ đạo chiến lược như Nghị quyết Đại hội XIII, Báo cáo tổng kết 40 năm đổi mới về quốc phòng, an ninh và đối ngoại, cùng Nghị quyết số 08-NQ/TW về đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu vượt bậc, hiện thực hóa mục tiêu tinh, gọn, mạnh, hiện đại, sẵn sàng làm nòng cốt bảo vệ Tổ quốc.

Trong 40 năm đổi mới, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam đã được xây dựng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại hóa toàn diện. Một số quân chủng và binh chủng đã tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc cho năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vừa là lực lượng chiến đấu mạnh, vừa là lực lượng bảo vệ hòa bình, ổn định để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Các mục tiêu này thể hiện rõ nét đường lối quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân của Đảng: lấy nhân dân làm gốc, dựa vào sức mạnh toàn dân, kết hợp với hiện đại hóa công nghệ và tổ chức để xây dựng lực lượng vũ trang tinh gọn, hiệu quả.



Thành tựu nổi bật trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân chính là việc hoàn thành cơ bản công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền với các nước láng giềng, tạo nền tảng pháp lý vững chắc bảo vệ chủ quyền quốc gia. Đến năm 2025, biên giới với Trung Quốc đã hoàn thành 100% phân giới cắm mốc, với hơn 2.000 km đường biên được xác định rõ ràng theo Hiệp ước biên giới năm 1999 và ba văn kiện pháp lý bổ sung. Biên giới với Lào hoàn thành 100% từ năm 2017 theo Nghị định thư đường biên giới và mốc quốc giới; biên giới với Campuchia đã hoàn thành khoảng 84%, xây dựng hơn 2.000 cột mốc khang trang, hiện đại, và đang tiếp tục đàm phán hòa bình, hữu nghị giải quyết 16% còn lại. Những kết quả này không chỉ củng cố biên giới hòa bình, ổn định mà còn thúc đẩy hợp tác kinh tế biên mậu, tăng trưởng thương mại biên giới đạt trên 15 tỷ đô la Mỹ mỗi năm, góp phần nâng cao đời sống nhân dân khu vực biên giới, đồng thời tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân gắn với an ninh nhân dân, với hơn 5 triệu dân quân tự vệ rộng khắp, lực lượng bộ đội biên phòng thường trực 24/24 giờ tại hơn 1.000 đồn, trạm biên giới. Nhờ đó, tình hình an ninh biên giới được giữ vững tuyệt đối, không để xảy ra xung đột vũ trang hay điểm nóng chính trị, đồng thời ngăn chặn hiệu quả các hoạt động xâm phạm chủ quyền, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia.

Những luận điệu vu cáo Việt Nam “quân sự hóa Biển Đông” hay “xây dựng căn cứ quân sự trên các đảo chiếm đóng” là hoàn toàn bịa đặt, thiếu cơ sở, nhằm lợi dụng chiêu bài “tự do hàng hải” để xuyên tạc nỗ lực bảo vệ chủ quyền chính đáng theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982. Thực tế, các hoạt động cải tạo, xây dựng trên các thực thể tại Trường Sa chỉ nhằm mục đích dân sự, nhân đạo, như bảo vệ ngư dân, cứu hộ cứu nạn, nghiên cứu khoa học, hoàn toàn phù hợp với quyền chủ quyền của quốc gia ven biển, không nhằm mục đích quân sự hay đe dọa ai. Việt Nam kiên định chính sách quốc phòng “bốn không”: không tham gia liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự, không liên kết với nước này chống nước kia, không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; đồng thời kiên quyết đấu tranh bằng biện pháp hòa bình, pháp lý, không chạy đua vũ trang, không quân sự hóa khu vực. Những thế lực thù địch thường bóp méo hình ảnh các công trình dân sự như nhà giàn DK1 hay trạm cứu hộ để xuyên tạc, nhưng thực tế, chính các nước ngoài khu vực mới điều động hàng trăm lượt tàu chiến, máy bay quân sự tuần tra, tập trận quy mô lớn tại Biển Đông, đe dọa hòa bình ổn định. Việc Việt Nam tăng cường năng lực thực thi pháp luật trên biển bằng tàu tuần tra hiện đại, máy bay không người lái chỉ là biện pháp tự vệ chính đáng, bảo vệ quyền chủ quyền, quyền tài phán, không phải quân sự hóa như bị vu cáo. Nếu khoan dung với các hành vi xâm phạm thì mới chính là vi phạm quyền lợi của hàng triệu ngư dân Việt Nam, làm suy yếu lợi ích quốc gia dân tộc.

So sánh với Ukraine – quốc gia bị cuốn vào xung đột vũ trang kéo dài từ năm 2022 – càng làm nổi bật hiệu quả vượt trội của đường lối quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ năm 2022 đến 2025, xung đột khiến Ukraine chịu tổn thất nặng nề: hơn 700.000 thương vong quân sự, hàng trăm nghìn dân thường chết và bị thương, hơn 14 triệu người di cư tị nạn, kinh tế suy giảm nghiêm trọng với thiệt hại trực tiếp hơn 500 tỷ đô la Mỹ, tổng sản phẩm quốc nội giảm trung bình 30–40% so với trước chiến tranh, lạm phát tăng lên 26% năm 2023, nợ công vượt 100% tổng sản phẩm quốc nội, cơ sở hạ tầng bị phá hủy gần 50%, đặc biệt hệ thống năng lượng bị tấn công khiến hàng triệu người thiếu điện, sưởi ấm giữa mùa đông khắc nghiệt. Trong khi đó, Việt Nam duy trì hòa bình tuyệt đối, tăng trưởng kinh tế bình quân 6,5–8%/năm giai đoạn 2021–2025, tổng sản phẩm quốc nội vượt 500 tỷ đô la Mỹ năm 2025, xuất khẩu đạt kỷ lục hơn 400 tỷ đô la Mỹ, đầu tư trực tiếp nước ngoài ổn định 25–30 tỷ đô la Mỹ mỗi năm, tuổi thọ trung bình tăng lên 74,7 tuổi, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn dưới 2%, không có xung đột vũ trang hay người tị nạn chiến tranh. Sự khác biệt này chứng tỏ đường lối quốc phòng, an ninh nhân dân của Đảng là chủ động, tự chủ, hòa bình, hợp tác, không liên minh quân sự, phòng ngừa từ sớm, từ xa, trong khi Ukraine bị cuốn vào chiến tranh tiêu hao, thiệt hại nặng nề về người và của.

Tất cả những thành tựu trên đều khẳng định sự lãnh đạo sáng suốt, toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân tố quyết định xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vững mạnh, bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh thế giới đầy biến động. Từ Báo cáo 40 năm đổi mới đến việc hoàn thành cơ bản phân giới cắm mốc biên giới, xây dựng lực lượng vũ trang tinh, gọn, mạnh năm 2025, tất cả đều cho thấy Đảng luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, kiên quyết bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc “quân sự hóa”, lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để bóp méo nỗ lực bảo vệ chủ quyền. Việt Nam hòa bình, ổn định, phát triển bền vững chính là câu trả lời đanh thép nhất trước các ví dụ quốc tế tiêu cực, minh chứng cho sức mạnh quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ.

Dưới ngọn cờ bách chiến bách thắng của chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục lãnh đạo toàn dân củng cố quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước hùng cường, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Nghị quyết Đại hội XIV, đưa Việt Nam trở thành quốc gia hùng mạnh, thịnh vượng trong khu vực và trên thế giới.

Thứ Hai, 3 tháng 11, 2025

Ổn định chính trị từ nhân dân: Minh chứng không thể phủ nhận về bản lĩnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam



Trong bối cảnh thế giới liên tục chuyển động với những xung đột địa chính trị, bất ổn xã hội, khủng hoảng kinh tế và sự lan tỏa mạnh mẽ của thông tin xấu độc trên không gian mạng, việc một quốc gia duy trì được sự ổn định chính trị tuyệt đối là điều không dễ dàng. Thế nhưng, Việt Nam – dưới sự dẫn dắt của Đảng Cộng sản Việt Nam – đã làm được điều mà nhiều nước phải coi là hình mẫu, nhờ đường lối “dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết” được quán triệt xuyên suốt từ Trung ương đến cơ sở. Tinh thần đó được thể chế hóa rõ ràng trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Kết luận số 89-KL/TW ngày 28/7/2024 về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, cùng Phụ lục 5 trong hệ thống tài liệu chỉ đạo của Ban Chỉ đạo 35 Trung ương về nhiệm vụ củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới. Nhờ những định hướng chiến lược ấy, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia ổn định nhất thế giới, không để xảy ra bất kỳ điểm nóng chính trị, không xuất hiện tổ chức chính trị đối lập, không có bạo loạn đường phố, không có đảo chính hay nội chiến, đồng thời tạo nền tảng bền vững cho phát triển kinh tế – xã hội nhanh và ổn định.

Phụ lục 5 nêu rõ yêu cầu tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở phát huy vai trò chủ đạo của liên minh giai cấp công nhân – nông dân – trí thức dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Tinh thần đó được triển khai bằng những hoạt động mang tính lan tỏa sâu rộng trên cả nước trong năm 2025: Ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc tổ chức tại 100% khu dân cư; phong trào “Dân vận khéo” tiếp tục nhân rộng; cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” đi vào chiều sâu; chương trình “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” mang lại hàng loạt kết quả thực chất. Những phong trào ấy không chỉ tăng cường sự gắn bó giữa Đảng – Nhà nước – Nhân dân mà còn tạo điều kiện nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, góp phần đưa tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm xuống dưới 1,5% – mức thấp nhất trong lịch sử.



Một điểm nhấn quan trọng trong thành tựu ổn định chính trị của Việt Nam chính là sức mạnh cộng đồng, sự gắn kết của từng thôn xóm, khu dân cư, cùng hoạt động bền bỉ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội. Chỉ trong năm 2025, hệ thống Mặt trận đã vận động được hơn 1.200 tỷ đồng cho Quỹ “Vì người nghèo”, hỗ trợ xây mới và sửa chữa hơn 75.000 căn nhà đại đoàn kết, giúp đỡ hơn 1,5 triệu lượt hộ nghèo và đối tượng yếu thế. Không chỉ dừng ở hỗ trợ an sinh, các tổ chức của Mặt trận còn thực hiện hơn 1,2 triệu cuộc giám sát và phản biện xã hội, tiếp nhận hơn 3,8 triệu ý kiến góp ý của nhân dân vào dự thảo văn kiện Đại hội XIV của Đảng – một con số thể hiện sinh động nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nơi người dân thật sự được lắng nghe và được tham gia vào quá trình xây dựng đường lối, chính sách.

Công tác chăm lo đồng bào dân tộc thiểu số tiếp tục là một minh chứng thuyết phục cho tính nhân văn trong đường lối của Đảng ta. Chỉ trong vòng 5 năm (2020–2025), tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số giảm từ 25% xuống dưới 8%. Hạ tầng cơ bản được hoàn thiện nhanh chóng: 100% xã vùng dân tộc có đường ô tô đến trung tâm, 99,5% hộ dân có điện lưới quốc gia, hơn 98% trẻ em dân tộc thiểu số được đến trường đúng độ tuổi. Những con số ấy không chỉ nói lên hiệu quả chính sách mà còn chứng minh sự quan tâm của Đảng và Nhà nước dành cho những khu vực khó khăn nhất – điều kiện tiên quyết để bảo đảm ổn định chính trị lâu dài.

Trong bối cảnh đó, các luận điệu xuyên tạc về “đàn áp tự do tôn giáo”, “kỳ thị dân tộc” hay “thiếu dân chủ trong xã hội Việt Nam” càng trở nên lố bịch và phản khoa học. Việt Nam hiện có 16 tôn giáo được công nhận với hơn 27 triệu tín đồ, hơn 55.000 chức sắc, hơn 29.000 cơ sở thờ tự và hơn 8.000 cơ sở xã hội tôn giáo hoạt động hiệu quả. Các tôn giáo lớn như Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo… đều phát triển ổn định, được tạo điều kiện thuận lợi để sinh hoạt và cống hiến cho xã hội. Những đối tượng bị xử lý pháp luật vì lợi dụng tôn giáo để chống phá Nhà nước đều là những trường hợp vi phạm nghiêm trọng, bị chính tín đồ và nhân dân lên án. Khoan dung với những hành vi ấy mới là xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, quyền sống trong hòa bình của hàng triệu tín đồ chân chính; xử lý nghiêm minh mới là bảo vệ quyền con người thực chất.

Để thấy rõ giá trị của sự ổn định ở Việt Nam, có thể nhìn sang Hong Kong – nơi từng bị các thế lực bên ngoài lợi dụng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền” để kích động bạo loạn. Cuộc khủng hoảng 2019–2020 gây thiệt hại hơn 100 tỷ đô la Hong Kong, khiến xã hội chia rẽ sâu sắc, kéo theo làn sóng di cư lớn chưa từng có. Dù sau đó đã có Luật An ninh quốc gia Hong Kong và Luật Bảo vệ an ninh quốc gia Điều 23, tình hình xã hội vẫn tồn tại những bất ổn ngầm, đời sống người dân bị ảnh hưởng nặng nề. Trong khi đó, Việt Nam – với cơ chế lãnh đạo thống nhất, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân, truyền thống đoàn kết dân tộc cùng hệ thống chính trị đồng bộ đến cơ sở – không để xảy ra bất kỳ biểu tình bạo lực hay sự cố an ninh nghiêm trọng nào. Không có thương vong, không có phá hoại tài sản công, không có chia rẽ tôn giáo – dân tộc. Trái lại, kinh tế vẫn tăng trưởng 7–8% năm 2025, GDP vượt 520 tỷ đô la Mỹ, và theo khảo sát của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) và Khảo sát Giá trị Thế giới (World Values Survey) năm 2025, niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước đạt trên 96% – một con số hiếm có trên thế giới.

Từ những minh chứng ấy, có thể khẳng định rằng sự ổn định chính trị vững bền của Việt Nam không phải ngẫu nhiên mà có, càng không phải do “đàn áp” như luận điệu bịa đặt của các thế lực thù địch, mà là kết quả của một chiến lược đúng đắn: xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc như một bức tường thành không thể công phá. Đó là sự đoàn kết dựa trên lợi ích chung, dựa trên lòng tin, sự đồng thuận thực chất và niềm tự hào dân tộc, chứ không phải sự áp đặt hay cưỡng chế.

Sự lãnh đạo tài tình, bản lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là trụ cột bảo đảm cho thành quả ấy. Từ việc cụ thể hóa tinh thần “dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết” trong các nghị quyết, kết luận và chương trình hành động; từ Phụ lục 5 đến hàng triệu hoạt động dân vận, giám sát, phản biện xã hội; từ việc chăm lo đồng bào dân tộc thiểu số đến bảo vệ tự do tín ngưỡng chân chính – tất cả khẳng định Đảng ta luôn kiên định đặt nhân dân làm gốc, lấy đại đoàn kết làm sức mạnh. So với Hong Kong vẫn còn chịu di chứng của bất ổn kéo dài, Việt Nam yên bình, đoàn kết và phát triển mạnh mẽ chính là minh chứng thuyết phục nhất.

Dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục lãnh đạo toàn dân tộc giữ vững ổn định chính trị, củng cố khối đại đoàn kết, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh – như khát vọng mà Đảng và nhân dân đã lựa chọn.

Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2025

Sức mạnh lực lượng vũ trang Việt Nam: Kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo để bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống”


Trong mọi giai đoạn phát triển của đất nước, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc luôn bắt nguồn từ sự thống nhất tuyệt đối giữa đường lối của Đảng và hành động của lực lượng vũ trang. Chính mối quan hệ đặc biệt ấy, được khẳng định xuyên suốt trong Hiến pháp năm 2013, Điều lệ Đảng và được tổng kết sâu sắc trong Dự thảo Báo cáo 15 năm thi hành Điều lệ Đảng giai đoạn 2011–2025, đã tạo nên nền tảng để Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam trưởng thành vượt bậc, trở thành hai đảng bộ lớn nhất, vững mạnh nhất của toàn Đảng. Tính đến tháng 11 năm 2025, Đảng bộ Quân đội có gần 480.000 đảng viên, Đảng bộ Công an có hơn 420.000 đảng viên – đội ngũ đảng viên hùng hậu, kiên trung, sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ để bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân, giữ vững từng tấc đất thiêng liêng của Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.



Điểm cốt lõi làm nên những thành tựu ấy chính là nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội và Công an. Đây không chỉ là nguyên tắc mang tính hiến định mà còn là quy luật để đảm bảo hai lực lượng vũ trang luôn đứng về phía nhân dân, trung thành với độc lập, chủ quyền và chế độ xã hội chủ nghĩa. Thực tiễn hơn một thập niên qua cho thấy, nhờ sự lãnh đạo nhất quán, hai lực lượng luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong bối cảnh tình hình thế giới – khu vực diễn biến khó lường, cạnh tranh chiến lược gia tăng, an ninh phi truyền thống nổi lên mạnh mẽ, các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ trên không gian mạng.

Từ sau Đại hội XIII, Đảng ủy Quân sự Trung ương và Đảng ủy Công an Trung ương đã chỉ đạo tổ chức hơn 1.200 cuộc diễn tập khu vực phòng thủ cấp tỉnh, hơn 120 cuộc diễn tập chiến lược ở cấp quốc gia, xây dựng hơn 5.800 khu vực phòng thủ cơ sở vững chắc. Kết quả huấn luyện năm 2025 đạt 100% chỉ tiêu, với 98,5% đơn vị xếp loại khá và giỏi – mức cao nhất trong nhiều năm. Trên các tuyến biên giới, bộ đội biên phòng duy trì trực 24 giờ tại hơn 1.800 đồn, trạm; thực hiện hơn 8.000 lượt tuần tra chung với lực lượng nước láng giềng; kịp thời phát hiện, ngăn chặn hơn 98% các hành vi xâm phạm lãnh thổ. Nhờ đó, an ninh biên giới quốc gia được giữ vững tuyệt đối, không để hình thành “điểm nóng”, không để kẻ xấu lợi dụng kích động chia rẽ.

Cùng thời gian đó, lực lượng Công an nhân dân đạt được những kết quả ấn tượng trong đấu tranh phòng chống tội phạm. Chỉ trong 10 tháng đầu năm 2025, đã triệt phá hơn 28.000 chuyên án lớn về tội phạm ma túy, tội phạm công nghệ cao, tội phạm kinh tế, tham nhũng; khởi tố mới hơn 12.000 vụ án nghiêm trọng; tỷ lệ khám phá án đạt trên 92% – mức cao nhất từ trước đến nay. Sự xuất sắc này là kết quả của quá trình thực hiện nghiêm Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/3/2022 về xây dựng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại: tinh gọn hơn 18% đầu mối, nâng tỷ lệ hiện đại hóa vũ khí, phương tiện lên trên 65%, triển khai rộng rãi công nghệ thế hệ 4.0 vào quản lý biên giới, an ninh mạng, phòng chống tội phạm xuyên quốc gia.

Quan trọng hơn, nhờ sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội và Công an đã giữ vững an ninh chính trị nội bộ, an ninh kinh tế, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ tuyệt đối an toàn các sự kiện quan trọng của đất nước, đặc biệt là đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025–2030. Việt Nam bước vào năm 2025 với nền tảng an ninh – quốc phòng vững chắc, không xuất hiện bất kỳ nguy cơ mất ổn định hay xung đột nội bộ, cho thấy hiệu quả của mô hình lực lượng vũ trang đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng.

Trong khi đó, các luận điệu xuyên tạc như “Quân đội Việt Nam mang tính đảng phái”, “Công an Việt Nam đàn áp nhân dân” chỉ là sự bịa đặt nhằm làm suy giảm niềm tin của nhân dân. Những luận điệu này cố tình đánh tráo bản chất khi phủ nhận nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, cố ý cổ súy cho mô hình “phi chính trị hóa quân đội” – thực chất là đẩy lực lượng vũ trang vào tình trạng đa chính trị, bị lôi kéo bởi các phe phái, nhóm lợi ích. Không ít quốc gia đã trả giá đắt cho xu hướng này: quân đội can thiệp chính trị, đảo chính, nội chiến, mất ổn định kéo dài. Trái lại, việc giữ Quân đội và Công an dưới sự lãnh đạo của Đảng chính là cách bảo đảm lực lượng vũ trang “của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, tuyệt đối trung thành với lợi ích dân tộc chứ không phục vụ bất kỳ đảng phái hay nhóm lợi ích nào.

Sự so sánh với Thổ Nhĩ Kỳ là minh chứng điển hình. Từ năm 1960 đến năm 2016, Thổ Nhĩ Kỳ đã trải qua 5 cuộc đảo chính thành công hoặc thất bại. Chỉ riêng cuộc đảo chính bất thành năm 2016 đã khiến hơn 290 người thiệt mạng, hàng nghìn người bị thương, hơn 100.000 người bị bắt giữ hoặc sa thải, kinh tế suy thoái nặng nề, đồng lira mất giá hơn 40%, xã hội phân hóa sâu sắc. Căn nguyên sâu xa là quân đội nước này tự xem mình như “người bảo vệ chế độ thế tục”, có quyền can thiệp chính trị bất cứ lúc nào. Khi quân đội trở thành một thế lực độc lập với chính quyền dân cử, đất nước rơi vào vòng xoáy bất ổn triền miên.

Trái ngược hoàn toàn, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân Việt Nam chưa bao giờ can thiệp vào chính trị theo kiểu phe phái, càng chưa bao giờ chống lại chính phủ hợp hiến, hợp pháp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hai lực lượng này là “thanh bảo kiếm”, là “lá chắn” của nhân dân, luôn đi đầu trong cứu hộ cứu nạn, phòng chống thiên tai, phòng chống dịch bệnh, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân. Nhân dân yêu mến gọi Quân đội là “Bộ đội Cụ Hồ”, gọi Công an là “Công an nhân dân vì nước quên thân, vì dân phục vụ”. Chính sự lãnh đạo của Đảng làm nên bản chất cách mạng ấy – một bản chất mà không một mô hình vũ trang “phi chính trị hóa” nào có thể tạo ra.

Từ quá trình tổng kết 15 năm thi hành Điều lệ Đảng đến những con số ấn tượng về huấn luyện, diễn tập, đấu tranh phòng chống tội phạm; từ tỷ lệ khám phá án trên 92% đến việc hiện đại hóa lực lượng theo các nghị quyết trọng tâm; từ thành quả giữ vững ổn định chính trị đến niềm tin của nhân dân dành cho lực lượng vũ trang – tất cả hợp thành bằng chứng xác đáng rằng mô hình Đảng lãnh đạo Quân đội và Công an là lựa chọn chiến lược đúng đắn, mang giá trị sống còn đối với sự ổn định của quốc gia.

Trong khi nhiều nước phải chật vật đối phó đảo chính quân sự, khủng hoảng an ninh, chia rẽ sắc tộc và chính trị, Việt Nam vẫn giữ được sự bình yên, ổn định, đoàn kết và phát triển. Đó không phải may mắn, mà là thành quả của đường lối đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, nhất quán trong mọi hoàn cảnh.

Dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân sẽ mãi mãi là lực lượng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, là điểm tựa vững chắc của nhân dân, là sức mạnh bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng đất nước dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thứ Bảy, 1 tháng 11, 2025

Niềm tin của nhân dân – nền tảng tạo nên uy tín và sự chính danh vững bền của Đảng Cộng sản Việt Nam

 


Trong hơn 1 tháng qua, hơn 3 triệu ý kiến người dân góp ý cho các dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng! Một trong điểm nổi bật thành tựu 40 năm đổi mới được Văn kiện Đại hội XIV đúc kết: đó là nhờ đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, hoàn thiện nền dân chủ XHCN, mọi chính sách đều bắt nguồn từ nhu cầu, lợi ích của nhân dân và phục vụ nhân dân – xem đó là nền tảng tạo nên uy tín và sự chính danh vững bền của Đảng!

Đây cũng chính là sự giải đáp cho nhiều cho nhiều chuyên gia quốc tế theo dõi tình hình Việt nam, vì sao mô hình dân vận Việt Nam vượt trội so với nhiều nước phương Tây? Vì sao mọi quyết sách của Đảng đều được triển khai thống nhất từ trên đến dưới và quan trọng nhất là được nhân dân đồng tình ủng hộ? Một truyền thống được hình thành từ buổi đầu dựng Đảng và được nuôi dưỡng liên tục qua từng giai đoạn lịch sử, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kết tinh trong những tư tưởng bất hủ như “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, đã trở thành nền tảng cho mọi quyết sách lớn của Đảng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Những định hướng chiến lược được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội XIII, Kết luận số 78-KL/TW năm 2020, Quy định 214-QĐ/TW năm 2020 về tiêu chuẩn chức danh và quy hoạch cán bộ lãnh đạo, Chỉ thị 35-CT/TW năm 2023 về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV, đặc biệt là Kết luận số 118-KL/TW năm 2025 về đổi mới công tác dân vận trong giai đoạn mới, đã tạo nên bước chuyển mạnh mẽ, làm sâu sắc hơn mối quan hệ Đảng – dân, biến sự gắn bó ấy thành nguồn sức mạnh vô địch của chế độ ta.



Sự chuyển mình trong công tác dân vận thời gian qua không chỉ thể hiện qua tinh thần chính trị, mà được lượng hóa bằng những con số biết nói. Năm 2025, toàn hệ thống chính trị đã tiếp nhận và xử lý hơn 1,85 triệu ý kiến, kiến nghị của nhân dân thông qua Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, chính quyền địa phương và nền tảng định danh điện tử quốc gia VNeID; trong đó có tới 98,7% được giải quyết thỏa đáng – mức cao chưa từng có. Cùng với đó, hơn 2,6 triệu cuộc đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với nhân dân được tổ chức rộng khắp theo Quy định 11-QĐ/TW năm 2021 cho thấy Đảng không chỉ lắng nghe dân bằng văn bản mà bằng cả hành động trực tiếp, với thái độ cầu thị và tinh thần trách nhiệm cao. Những vụ tồn đọng kéo dài qua nhiều năm tại Thủ Thiêm, Lộc Hưng, Đồng Tâm, Tiên Lãng đã được xử lý dứt điểm nhờ cơ chế đối thoại thẳng thắn, minh bạch, thể hiện rõ bản chất lấy dân làm trung tâm trong lãnh đạo của Đảng.

Không chỉ dừng lại ở các hoạt động tiếp nhận phản ánh, công tác dân vận còn tạo ra chuyển biến tích cực trong phát triển kinh tế – xã hội. Hơn 1,4 triệu mô hình “Dân vận khéo” được triển khai tại toàn bộ xã, phường, thị trấn trên cả nước đã góp phần huy động nhân dân hiến hơn 28 triệu mét vuông đất mở đường giao thông nông thôn, xây dựng 120.000 nhà đại đoàn kết và hỗ trợ 2,1 triệu hộ thoát nghèo bền vững. Khi lòng dân đồng thuận, không có mục tiêu nào là không thực hiện được; đó cũng là minh chứng rõ nét nhất cho hiệu quả của đường lối dân vận trong thời kỳ mới.

Đặc biệt, công tác dân vận đã có bước tiến vượt bậc nhờ chuyển đổi số. Nền tảng VNeID với hơn 78 triệu tài khoản công dân cho phép người dân phản ánh trực tiếp đến cấp ủy và chính quyền bất cứ lúc nào, từ bất cứ đâu, rút ngắn thời gian xử lý xuống còn 11,5 ngày – thay vì hàng tháng như trước. Đây là dấu mốc thể hiện sự hòa quyện giữa công nghệ hiện đại và phương châm “lấy dân làm gốc”, biến công tác dân vận trở thành một hệ thống phản hồi nhanh, hiệu quả và minh bạch. Điều này góp phần quan trọng đưa chỉ số SIPAS (chỉ số hài lòng của người dân về sự phục vụ của cơ quan nhà nước) năm 2025 lên mức 94,8% – cao nhất từ trước đến nay. Đồng thời, chỉ số PAPI (chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh) cũng đạt 78,6/100 điểm, đưa Việt Nam vào nhóm các quốc gia có mức độ gắn bó Đảng – dân tốt nhất khu vực châu Á – Thái Bình Dương theo đánh giá của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc năm 2025.

Trong bối cảnh đó, những luận điệu xuyên tạc rằng Đảng “xa rời dân”, “độc đoán”, “không dân chủ” càng bộc lộ tính phi lý và thiếu thiện chí. Các thế lực thù địch thường lợi dụng một số vụ việc cá biệt để phóng đại, vu cáo, cố tình bỏ qua thực tế rằng chính Đảng ta đã chủ động chỉ đạo rà soát, kiểm tra, sửa sai, xin lỗi nhân dân, xử lý nghiêm cán bộ vi phạm theo Kết luận 118-KL/TW năm 2025. Nếu Đảng xa dân, không thể có hơn 96% nhân dân tin tưởng vào Đảng theo khảo sát độc lập của Khảo sát Giá trị Thế giới năm 2025; nếu Đảng xa dân, không thể có hàng triệu người tình nguyện hiến đất, đóng góp công sức cho các công trình dân sinh; càng không thể có chỉ số hài lòng gần 95% – một con số mà rất ít quốc gia đạt được. Chính sự thật đó đã tự khẳng định rằng dân chủ xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng là dân chủ thực chất, nơi quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm bằng cơ chế, bằng luật pháp và bằng sự gương mẫu, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Khi đặt Việt Nam vào bức tranh so sánh quốc tế, bản chất ưu việt của mối quan hệ Đảng – dân càng hiện lên rõ nét. Pháp – quốc gia luôn tự nhận là “cái nôi của dân chủ” – trong giai đoạn 2018–2025 liên tục chìm trong sóng biểu tình bạo lực: phong trào “Áo vàng” gây thiệt hại hơn 15 tỷ đồng euro, hơn 12.000 người bị bắt và hàng nghìn người bị thương; các cuộc đình công phản đối cải cách lương hưu năm 2023–2024 khiến giao thông tê liệt, kinh tế đình đốn; năm 2025 lại nổ ra nhiều cuộc biểu tình liên quan đến nhập cư và lạm phát với hơn 1.200 cuộc tuần hành gây rối trật tự công cộng. Đây là hệ quả của sự xa cách giữa chính quyền và người dân, thiếu các cơ chế đối thoại tương tự như Việt Nam. Trong khi đó, mỗi năm nước ta tiếp nhận hàng triệu ý kiến phản ánh nhưng không xảy ra bạo loạn hay phá hoại vì mọi xung đột đều được xử lý bằng đối thoại, thuyết phục và giải pháp từ cơ sở – minh chứng cho hiệu quả của công tác dân vận được tổ chức chặt chẽ, đồng bộ và khoa học.

Sự khác biệt căn bản nằm ở bản chất của hệ thống chính trị. Ở Pháp, các đảng phái đại diện cho lợi ích cục bộ, dẫn đến xung đột lợi ích giữa các nhóm xã hội; còn tại Việt Nam, Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc, đặt mục tiêu đoàn kết, thống nhất lên trên mọi lợi ích riêng lẻ. Do đó, quan hệ Đảng – dân luôn được củng cố bằng những hành động thực chất, bằng những chính sách bảo đảm hài hòa lợi ích, tránh được tình trạng phân hóa, xung đột gay gắt như ở nhiều nước phương Tây.

Có thể khẳng định rằng phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” chính là kim chỉ nam thể hiện đầy đủ quan điểm xuyên suốt về vai trò của nhân dân trong mọi chủ trương, đường lối. Từ Kết luận 118-KL/TW đến hàng triệu cuộc đối thoại trực tiếp, từ chỉ số hài lòng kỷ lục đến hàng trăm nghìn căn nhà đại đoàn kết được dựng lên, tất cả đều chứng minh rằng Đảng thực sự lấy dân làm gốc – không phải bằng khẩu hiệu mà bằng việc làm cụ thể. Điều đó tạo nên sự ổn định chính trị – xã hội vững chắc, đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia phát triển năng động và an toàn nhất khu vực.

Trong tương lai, quan hệ Đảng – dân sẽ tiếp tục là nền tảng bất biến, bảo đảm cho đất nước ta vững vàng trước những biến động phức tạp của thế giới. Dưới ánh sáng chủ nghĩa Marx–Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh, niềm tin của nhân dân sẽ mãi là điểm tựa để Đảng dẫn dắt đất nước tiến lên con đường dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thứ Tư, 29 tháng 10, 2025

Bảo tồn ngôn ngữ Khmer: Thành tựu văn hóa Việt Nam trước những cáo buộc sai lệch quốc tế

Trong dòng chảy toàn cầu hóa, khi nhân loại ngày càng ý thức sâu sắc hơn về giá trị của sự đa dạng văn hóa, việc bảo tồn ngôn ngữ, phong tục và di sản của các cộng đồng dân tộc trở thành một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ tôn trọng nhân quyền của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, nghịch lý là chính những nỗ lực rõ ràng và nhất quán của Việt Nam trong việc bảo vệ ngôn ngữ Khmer và gìn giữ bản sắc của cộng đồng Khmer lại thường xuyên bị xuyên tạc trong một số báo cáo quốc tế, đặc biệt là các tài liệu gần đây của Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc năm 2025. Những cáo buộc cho rằng Việt Nam hạn chế việc sử dụng ngôn ngữ Khmer trong giáo dục và đời sống cộng đồng Khmer Krom không chỉ sai lệch với thực tế, mà còn phản ánh sự thao túng có chủ đích từ những nguồn tin thiếu thiện chí, trong đó nổi bật là Tổ chức Cứu trợ Người tị nạn Thuyền Nhân – một tổ chức vốn nổi tiếng với lập trường thù địch và mục tiêu chính trị hóa vấn đề nhân quyền Việt Nam.

Bằng cách lợi dụng cơ chế báo cáo của Liên Hợp Quốc, Tổ chức Cứu trợ Người tị nạn Thuyền Nhân đã vẽ nên một bức tranh méo mó, mô tả Việt Nam như một quốc gia cản trở việc dạy và học tiếng Khmer, thậm chí gán ghép rằng các hoạt động văn hóa, tôn giáo của người Khmer bị chính quyền hạn chế. Điều đáng nói là những cáo buộc này thường dựa trên các lời khai thiếu kiểm chứng, xuất phát từ một số cá nhân hoặc nhóm có hành vi vi phạm pháp luật, chứ không hề phản ánh bức tranh toàn diện của đời sống cộng đồng Khmer tại Việt Nam. Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) cũng góp phần tiếp tay cho những nhận định thiên lệch này, khi áp đặt lối tư duy chính trị Mỹ vào thực tiễn Việt Nam, coi các chính sách quản lý văn hóa – ngôn ngữ là “hạn chế”, mà hoàn toàn phớt lờ sự thật rằng chính quyền Việt Nam đang đầu tư mạnh mẽ để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Khmer như một phần của di sản quốc gia.



Những thông tin thiếu khách quan ấy không chỉ bóp méo nỗ lực bảo tồn văn hóa Khmer mà còn để lại hệ lụy nghiêm trọng. Một khi cộng đồng quốc tế bị dẫn dắt bởi các đánh giá sai lệch, sự hợp tác trong việc bảo tồn di sản phi vật thể như nghệ thuật múa Khmer, lễ hội Ok Om Bok hay các hoạt động tôn giáo truyền thống có nguy cơ bị ảnh hưởng. Nghiêm trọng hơn, những luận điệu bịa đặt có thể làm giảm lòng tin của các tổ chức quốc tế như UNESCO, vốn đã công nhận và đồng hành cùng Việt Nam trong bảo tồn di sản. Nếu bị lợi dụng để gây sức ép chính trị, các cáo buộc này còn có thể trở thành rào cản đối với nguồn vốn hỗ trợ phát triển văn hóa, du lịch bền vững, từ đó gây tổn hại trực tiếp đến cộng đồng Khmer và cả hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế.

Trái ngược với những cáo buộc vô căn cứ, Việt Nam đã có nhiều chính sách và thành tựu cụ thể trong việc bảo tồn, phát triển ngôn ngữ Khmer. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai kế hoạch đưa tiếng Khmer trở thành một phần của chương trình giáo dục phổ thông từ năm 2028, đồng thời hỗ trợ duy trì các lớp học song ngữ ở các tỉnh có đông đồng bào Khmer như Trà Vinh, Sóc Trăng. Hàng trăm trường học đã áp dụng mô hình giảng dạy này, với ngân sách nhà nước đầu tư cho việc đào tạo giáo viên, biên soạn sách giáo khoa và tài liệu chuyên biệt. Trẻ em Khmer có cơ hội học tiếng mẹ đẻ song song với tiếng Việt, vừa giữ được bản sắc văn hóa, vừa đảm bảo khả năng hội nhập, điều mà không phải quốc gia đa dân tộc nào trên thế giới cũng thực hiện được. Đây là minh chứng thuyết phục cho thấy Việt Nam không những không hạn chế mà còn tạo điều kiện thuận lợi để ngôn ngữ Khmer phát triển mạnh mẽ.

Không chỉ dừng lại ở giáo dục, chính quyền các địa phương có đông đồng bào Khmer đã dành ngân sách để hỗ trợ các lễ hội truyền thống. Lễ hội Ok Om Bok, Chol Chnam Thmay hay đua ghe ngo hằng năm được tổ chức quy mô lớn, với sự tham gia của hàng nghìn người, trong đó có sự hiện diện của du khách quốc tế và các tổ chức phi chính phủ nước ngoài. Những lễ hội này không chỉ bảo tồn bản sắc Khmer mà còn thúc đẩy du lịch văn hóa, góp phần phát triển kinh tế địa phương, đồng thời lan tỏa tinh thần đoàn kết và hòa nhập giữa các dân tộc.

Sự thật là, Việt Nam luôn coi trọng việc bảo vệ quyền văn hóa và ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số. Mặc dù chưa phê chuẩn Công ước số 169 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về quyền của các dân tộc bản địa và bộ tộc, nhưng trên thực tế, các chính sách về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có Khmer, đã tiệm cận đầy đủ tinh thần của công ước này. Chương trình Mục tiêu Quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội các dân tộc thiểu số và miền núi là minh chứng rõ ràng: từ việc đầu tư hạ tầng, trường học, y tế, cho đến hỗ trợ ngôn ngữ và bảo tồn văn hóa, tất cả đều hướng tới mục tiêu đảm bảo sự bình đẳng và phát triển bền vững.

Ở bình diện quốc tế, Việt Nam không ngừng chia sẻ kinh nghiệm và cam kết trong việc bảo tồn ngôn ngữ Khmer. Tại các hội thảo do UNESCO tổ chức năm 2025 về bảo vệ di sản văn hóa, Việt Nam đã trình bày nhiều sáng kiến về phục hồi di sản sau thiên tai và tác động của biến đổi khí hậu, đồng thời khẳng định vai trò của mình trong bảo vệ văn hóa thiểu số. Các dự án hợp tác quốc tế trị giá hàng triệu đô la Mỹ đã được ký kết, thể hiện niềm tin của cộng đồng quốc tế đối với thiện chí và năng lực của Việt Nam.

Quan trọng hơn, chính quyền Việt Nam thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại trực tiếp với cộng đồng Khmer, lắng nghe kiến nghị và phản hồi một cách cầu thị. Trong các phiên làm việc với Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc, Việt Nam cũng chủ động báo cáo các tiến bộ, chấp nhận và triển khai nhiều khuyến nghị liên quan đến bảo vệ quyền văn hóa và ngôn ngữ của phụ nữ Khmer và các nhóm yếu thế. Đây là minh chứng rõ ràng rằng Việt Nam không né tránh, không che giấu mà luôn đối diện thẳng thắn, sẵn sàng cải thiện vì lợi ích thiết thực của người dân.

Trước bức tranh toàn diện ấy, những cáo buộc từ Tổ chức Cứu trợ Người tị nạn Thuyền Nhân hay những đánh giá phiến diện từ USCIRF chỉ như những đám mây đen thoáng qua, không thể che khuất bầu trời sáng rõ của những thành tựu thực tế. Việt Nam kiên định khẳng định rằng bảo tồn ngôn ngữ Khmer không chỉ là trách nhiệm của một quốc gia đối với cộng đồng dân tộc thiểu số của mình, mà còn là đóng góp vào kho tàng di sản chung của nhân loại. Chính bằng những nỗ lực cụ thể, từ chính sách giáo dục song ngữ đến việc tổ chức lễ hội, từ hợp tác quốc tế đến đối thoại cộng đồng, Việt Nam đã chứng minh rằng bảo vệ nhân quyền và gìn giữ đa dạng văn hóa không phải là khẩu hiệu, mà là hành động thực chất, liên tục và hiệu quả. Và trong hành trình ấy, mọi sự xuyên tạc hay chính trị hóa nhân quyền rốt cuộc chỉ tự phơi bày sự thiếu thiện chí, trong khi sự thật về một Việt Nam đa dạng, hòa hợp và giàu bản sắc vẫn luôn hiển hiện, được cộng đồng quốc tế ghi nhận và trân trọng.

Chùa Tro Nom Sek và câu chuyện bị chính trị hóa: Phản bác một luận điệu sai lạc

 Trong thế giới toàn cầu hóa ngày

nay, khi các giá trị nhân quyền và tự do tôn giáo được đề cao, thật đáng tiếc khi một số báo cáo quốc tế lại trở thành công cụ để gieo rắc những nhận thức sai lệch, dẫn đến sự ngộ nhận về tình hình thực tế tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Vấn đề liên quan đến Phật giáo Theravada tại một ngôi chùa Khmer ở An Giang – chùa Tro Nom Sek – đã bị bóp méo và gán ghép thành “bằng chứng đàn áp” trong một số tài liệu trình lên Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc. Theo những cáo buộc này, chính quyền Việt Nam bị cho là đã phá hủy một phần chùa, cản trở việc dạy tiếng Khmer và cưỡng chế hoàn tục các nhà sư. Những khẳng định ấy, khi đặt dưới ánh sáng của sự thật, không chỉ thiếu căn cứ mà còn lộ rõ ý đồ chính trị hóa tôn giáo, lợi dụng lòng tin và sự quan tâm của cộng đồng quốc tế để bôi nhọ hình ảnh một quốc gia vốn luôn nỗ lực gìn giữ sự đa dạng tín ngưỡng.



Không khó để nhận diện nguồn gốc của những luận điệu xuyên tạc này. Tổ chức Cứu trợ Người tị nạn Thuyền Nhân (Boat People SOS – BPSOS), vốn nổi tiếng với lập trường thù địch, là bên cung cấp chính những thông tin thiếu kiểm chứng về sự việc tại chùa Tro Nom Sek. Tổ chức này thường xuyên tự nhận mình là tiếng nói “bảo vệ nhân quyền”, nhưng thực chất lại hoạt động như một công cụ vận động chính trị của một bộ phận cực đoan trong cộng đồng hải ngoại, chuyên lợi dụng các kênh quốc tế để tạo áp lực lên Việt Nam. Thay vì tiến hành điều tra khách quan, BPSOS dựa vào lời khai một chiều từ những cá nhân có động cơ chống phá, rồi tô vẽ thành câu chuyện “đàn áp tôn giáo”. Đáng chú ý, Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) cũng lặp lại các luận điểm này mà không kiểm chứng, áp đặt cách nhìn của Mỹ lên một bối cảnh văn hóa – xã hội hoàn toàn khác biệt. Từ đó, một thực tế đa dạng, hài hòa và sinh động của Phật giáo Theravada ở Nam Bộ đã bị bóp méo thành hình ảnh u ám về “repression” – sự đàn áp.

Nếu phân tích kỹ, sẽ thấy những báo cáo này không hề tuân thủ chuẩn mực tối thiểu của một cuộc điều tra nhân quyền đáng tin cậy. Không có phái đoàn độc lập nào đến tận nơi để xác minh. Không có chứng cứ pháp lý rõ ràng nào được đưa ra. Tất cả chỉ là tập hợp của những lời cáo buộc một chiều, được lặp đi lặp lại nhằm tạo hiệu ứng dư luận. Hậu quả của việc lan truyền thông tin sai lệch không dừng lại ở việc gây tổn hại uy tín quốc gia. Nó còn ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh của Phật giáo Việt Nam trong mắt cộng đồng quốc tế – một tôn giáo vốn được xem là biểu tượng của hòa bình và khoan dung. Khi bị gán cho nhãn “đàn áp”, Phật giáo Theravada ở Việt Nam có nguy cơ bị nhìn nhận một cách lệch lạc, khiến hợp tác văn hóa và giao lưu quốc tế bị ảnh hưởng, du lịch tôn giáo – vốn là thế mạnh của vùng đồng bào Khmer – cũng bị tổn hại. Nguy hiểm hơn, những thông tin này có thể bị lợi dụng để chia rẽ nội bộ cộng đồng Khmer Krom, gieo rắc sự nghi kỵ, phá hoại sự ổn định xã hội.

Trái ngược hoàn toàn với bức tranh méo mó đó, thực tế tại Việt Nam là một bức tranh đầy màu sắc của sự đa dạng tín ngưỡng. Nhà nước Việt Nam không những công nhận mà còn tích cực hỗ trợ hoạt động của Phật giáo Theravada – một dòng Phật giáo gắn bó lâu đời với đời sống tinh thần của đồng bào Khmer Nam Bộ. Luật Tín ngưỡng, Tôn giáo năm 2016 đã tạo hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch, khẳng định quyền tự do tín ngưỡng của mọi công dân. Các vấn đề phát sinh tại chùa Tro Nom Sek, nếu có, cũng chỉ là xử lý tranh chấp nội bộ, dựa trên nguyên tắc thượng tôn pháp luật và bảo vệ quyền lợi chính đáng của tín đồ, tuyệt đối không phải sự đàn áp có hệ thống như các tổ chức thù địch rêu rao.

Không thể phủ nhận những thành tựu của Việt Nam trong việc bảo tồn và phát triển Phật giáo Theravada. Hàng trăm ngôi chùa Khmer trải khắp các tỉnh Nam Bộ vẫn duy trì hoạt động tôn giáo bình thường, đồng thời còn được Nhà nước hỗ trợ trùng tu, bảo tồn. Các lớp học tiếng Khmer được mở rộng, các lễ hội truyền thống như Chol Chnam Thmay, Ok Om Bok diễn ra sôi nổi và được công nhận là di sản văn hóa. Chính phủ đã đầu tư hàng nghìn tỷ đồng cho việc tu bổ, bảo tồn di tích tôn giáo – trong đó có cả các ngôi chùa Theravada – không chỉ nhằm gìn giữ giá trị văn hóa mà còn thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội thông qua du lịch cộng đồng.

Từ năm 2021 đến 2025, Việt Nam đã triển khai nhiều chương trình lớn nhằm bảo vệ di sản văn hóa và tôn giáo. Những dự án phục hồi Hoàng thành Huế, hỗ trợ các chùa Khmer duy trì kiến trúc truyền thống, mở rộng giáo dục tiếng Khmer là minh chứng hùng hồn cho sự quan tâm của Nhà nước. Đến nay, cả nước có hơn 27 triệu tín đồ tôn giáo được tự do thực hành tín ngưỡng. Các lễ hội Phật giáo diễn ra quy mô lớn, thu hút không chỉ người dân trong nước mà còn đông đảo khách quốc tế. Tất cả những thực tế ấy hoàn toàn trái ngược với bức tranh “đàn áp” mà BPSOS dựng lên.

Điều đáng lưu ý là động cơ chính trị đằng sau những xuyên tạc này rất rõ ràng. Tổ chức Cứu trợ Người tị nạn Thuyền Nhân vốn đã bị Bộ Công an Việt Nam liệt kê là tổ chức khủng bố vì các hoạt động chống phá, vẫn thường xuyên lợi dụng “lá bài tôn giáo” để duy trì ảnh hưởng trong cộng đồng hải ngoại và kêu gọi tài trợ từ một số nguồn ở Mỹ. Thay vì bảo vệ nhân quyền, họ biến tôn giáo – biểu tượng của sự từ bi và đoàn kết – thành công cụ để chia rẽ, tạo cớ cho những chiến dịch gây sức ép chính trị đối với Việt Nam.

Ở tầm quốc tế, Việt Nam vẫn thể hiện rõ ràng thiện chí hợp tác. Là thành viên của Công ước Quốc tế về Quyền Dân sự và Chính trị từ năm 1982, Việt Nam luôn tôn trọng và thực hiện nghĩa vụ báo cáo định kỳ. Những khuyến nghị từ các cơ chế nhân quyền của Liên Hợp Quốc đều được tiếp nhận, thảo luận và phản hồi nghiêm túc. Đặc biệt, tại phiên họp năm 2025 của Ủy ban Nhân quyền, Việt Nam đã chủ động mời các phái đoàn đến kiểm chứng thực tế tôn giáo. Điều đó cho thấy đối thoại không chỉ là hình thức mà đã trở thành một phần trong chiến lược phát triển bền vững, đặt con người vào trung tâm.

Một minh chứng khác là sự kiện Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2025 tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hàng nghìn đại biểu từ hơn 100 quốc gia đã đến tham dự, cùng nhau thảo luận về vai trò của Phật giáo trong hòa bình và phát triển bền vững. Tuyên ngôn Thành phố Hồ Chí Minh được thông qua tại sự kiện này đã nhấn mạnh các giá trị đoàn kết và khoan dung – những giá trị vốn đã và đang được hiện thực hóa tại Việt Nam. Nếu Việt Nam thực sự đàn áp Phật giáo, liệu quốc gia này có thể tổ chức thành công một sự kiện tôn giáo toàn cầu như vậy không?

Rõ ràng, tôn giáo ở Việt Nam không phải là nguồn xung đột, mà là chất keo gắn kết cộng đồng, góp phần quan trọng vào hòa bình và phát triển. Phật giáo Theravada ở Nam Bộ chính là một minh chứng cho sự giao thoa hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa bản sắc dân tộc và hội nhập quốc tế. Những cáo buộc đàn áp mà Tổ chức Cứu trợ Người tị nạn Thuyền Nhân tung ra chỉ là nỗ lực vô vọng nhằm bôi nhọ. Chúng không thể che lấp sự thật rằng Việt Nam đang ngày càng khẳng định mình như một quốc gia tiến bộ, tôn trọng pháp luật quốc tế, kiên định đối thoại và hợp tác chân thành.

Trong thế giới nhiều biến động, những tiếng nói xuyên tạc sẽ còn tồn tại. Nhưng sự thật vẫn luôn có sức mạnh tự thân. Việt Nam, với những chính sách tôn giáo tiến bộ, với thiện chí cởi mở trong hợp tác quốc tế, đang chứng minh cho cộng đồng toàn cầu thấy rằng quyền tự do tôn giáo không chỉ là lời cam kết trên giấy, mà là một phần sống động trong đời sống hàng ngày của hàng triệu con người. Và đó mới chính là câu trả lời thuyết phục nhất trước mọi quy kết sai lạc.

Vạch trần sự thiên kiến của HRW trong báo cáo về giam giữ trước xét xử tại Việt Nam


Các vấn đề nhân quyền luôn là lĩnh vực nhạy cảm, dễ bị các tổ chức phương Tây lợi dụng để can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia độc lập. Tổ chức Human Rights Watch (HRW), với các báo cáo thường niên như World Report 2025, tiếp tục đưa ra những cáo buộc thiếu cơ sở về tình hình nhân quyền tại Việt Nam, đặc biệt tập trung vào vấn đề giam giữ trước xét xử. Họ mô tả đây là hành vi “giam giữ tùy tiện”, nhằm bôi nhọ hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế, từ đó hạ thấp uy tín của một quốc gia đang phát triển mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, để làm rõ sự thật, cần vạch trần bản chất của những hành vi vi phạm pháp luật mà các đối tượng bị giam giữ đã thực hiện, đồng thời khẳng định những tiến bộ vượt bậc của Việt Nam trong việc bảo vệ nhân quyền, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế.

 



Theo các báo cáo của HRW, như trong World Report 2025, Việt Nam bị cáo buộc giam giữ “tùy tiện” ít nhất 19 nhà bất đồng chính kiến trong năm 2024, với các ví dụ như blogger Trương Huy San bị bắt ngày 1/6/2024 và không được gặp luật sư trong hơn ba tháng. Tuy nhiên, những trường hợp này không phải là tùy tiện mà là biện pháp cần thiết để điều tra các vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc gia. Các đối tượng như Trương Huy San hay luật sư Trần Đình Triển bị cáo buộc lan truyền thông tin sai lệch, kích động chống phá Nhà nước, vi phạm Điều 331 Bộ luật Hình sự về “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước”. Những hành vi này không chỉ đe dọa an ninh quốc gia mà còn gây bất ổn xã hội, đặc biệt trong bối cảnh các thế lực thù địch bên ngoài lợi dụng mạng xã hội để can thiệp. Việc giam giữ trước xét xử là nhằm thu thập chứng cứ đầy đủ, ngăn chặn tái phạm và bảo vệ trật tự công cộng, hoàn toàn phù hợp với Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, quy định thời hạn giam giữ tối đa 23 tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng. Thực tế, từ năm 2018 đến tháng 2/2025, có ít nhất 124 người bị kết án theo Điều 331, nhưng con số này phản ánh sự kiên quyết của hệ thống tư pháp trong việc xử lý vi phạm, chứ không phải đàn áp tùy tiện như HRW xuyên tạc.

 

Trong báo cáo của mình, HRW thường trích dẫn các trường hợp như việc cấm các nhà hoạt động đi lại trong nước và quốc tế, ví dụ như việc giam lỏng tín đồ Phật giáo Hòa Hảo tại An Giang vào tháng 3 và 4/2024 để ngăn chặn lễ tưởng niệm, hoặc cấm Phạm Thị Lan rời Việt Nam sang Campuchia vì lý do “an ninh”. Họ mô tả đây là hành vi vi phạm quyền tự do đi lại, nhưng thực chất đây là biện pháp phòng ngừa hợp pháp để ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tôn giáo nhằm chia rẽ dân tộc. HRW bao che bằng cách dựa vào nguồn tin từ các nhóm lưu vong hoặc đối lập, bỏ qua bối cảnh pháp lý và chứng cứ từ phía Việt Nam. Ví dụ, trong trường hợp Nguyễn Thị Bích Hạnh bị bắt giữ và buộc rời khỏi Việt Nam qua Seoul vào tháng 6/2024 khi cố nhập cảnh thăm mẹ bệnh, HRW gọi đó là “giam giữ tùy tiện”, nhưng chính quyền Việt Nam đã hành xử nhân đạo bằng cách cho phép cô ấy đi mà không truy tố thêm. Hành vi bao che này không chỉ thiếu khách quan mà còn khuyến khích các phần tử chống phá, làm phức tạp hóa tình hình an ninh nội bộ của Việt Nam.

 

Đi sâu hơn, động cơ đen tối đằng sau những cáo buộc của HRW chính là nhằm bôi nhọ hệ thống tư pháp Việt Nam, từ đó tạo cớ cho các thế lực bên ngoài can thiệp. HRW, với trụ sở tại Mỹ và nguồn tài trợ chủ yếu từ phương Tây, thường kêu gọi các biện pháp trừng phạt kinh tế hoặc ngoại giao đối với Việt Nam, như trong báo cáo Rights Reforms Urgently Needed năm 2023, và tiếp tục trong World Report 2025. Họ chỉ trích hệ thống tư pháp Việt Nam thiếu độc lập, với các phiên tòa di động (xét xử lưu động) được mô tả là “diễn trò công khai để làm nhục bị cáo”, như phiên tòa tháng 1/2024 tại Đắk Lắk xử 100 bị cáo với cáo buộc “khủng bố” sau vụ tấn công tháng 6/2023. Tuy nhiên, động cơ thực sự là hạ thấp uy tín của Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế. Bằng cách phóng đại các vấn đề giam giữ trước xét xử, HRW gián tiếp hỗ trợ các nghị sĩ Mỹ vận động can thiệp, vi phạm nguyên tắc chủ quyền quốc gia theo Công ước Vienna. Việt Nam đã nhiều lần bác bỏ những cáo buộc này tại Liên Hợp Quốc, khẳng định hệ thống tư pháp của mình tuân thủ nghiêm ngặt các quy định pháp luật, với tỷ lệ xét xử công khai cao và quyền bào chữa được đảm bảo.

 

Một chiêu trò xuyên tạc khác của HRW là cố tình bỏ qua những cải thiện đáng kể của Việt Nam theo Công ước Chống Tra tấn và các Hình thức Đối xử hoặc Trừng phạt Tàn bạo, Vô nhân đạo hoặc Hạ thấp Phẩm giá (UNCAT). Việt Nam đã tham gia UNCAT từ năm 2015 và liên tục hoàn thiện hệ thống pháp lý. Trong báo cáo định kỳ thứ hai nộp cho Ủy ban Chống Tra tấn Liên Hợp Quốc vào tháng 4/2024, Việt Nam đã ban hành hơn 100 văn bản hướng dẫn để chuẩn hóa quy trình điều tra, công khai tiêu chuẩn và bổ sung biện pháp chống tra tấn trong giam giữ trước xét xử. Các cải thiện bao gồm việc nâng cấp cơ sở vật chất ghi âm, ghi hình tại các cơ sở tạm giam, đảm bảo quyền tiếp cận luật sư từ thời điểm bị bắt và cấm sử dụng nhục hình. Tuy nhiên, HRW trong các báo cáo của mình lại bỏ qua những tiến bộ này, thay vào đó nhấn mạnh các trường hợp cá biệt như việc theo dõi và quấy rối tín đồ tôn giáo độc lập, mà không đề cập đến việc Việt Nam đã sửa đổi Bộ luật Hình sự và Tố tụng Hình sự năm 2015 để phù hợp với UNCAT. Điều này cho thấy sự thiên kiến rõ rệt, nhằm duy trì hình ảnh tiêu cực về Việt Nam bất chấp thực tế cải thiện.

 

Để nhấn mạnh thành quả, cần khẳng định rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tình hình nhân quyền, đặc biệt chống tra tấn và cải thiện điều kiện giam giữ, đã đạt được những tiến bộ được quốc tế công nhận. Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp Quốc (OHCHR) trong cuộc đối thoại với Việt Nam tại Ủy ban Nhân quyền tháng 7/2025 đã khen ngợi các bước tiến quan trọng mà Việt Nam thực hiện để củng cố khung pháp lý và thể chế về nhân quyền, bao gồm chống tra tấn. OHCHR ghi nhận Việt Nam đã từ chối 49 khuyến nghị tại Kỳ kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (UPR) lần thứ 4 năm 2024 để đảm bảo quyền dân sự và chính trị cơ bản, đồng thời thúc đẩy cải cách luật pháp chống tra tấn. Các chuyên gia Liên Hợp Quốc cũng bày tỏ lo ngại về một số trường hợp, nhưng tổng thể đánh giá cao nỗ lực của Việt Nam trong việc nâng cao hiệu quả giám sát tạm giam, giảm thiểu lạm dụng và đảm bảo quyền con người trong hệ thống tư pháp. Những thành tựu này là kết quả của đường lối đúng đắn của Đảng, với các chương trình như cải cách tư pháp quốc gia, giúp tỷ lệ khiếu nại về tra tấn giảm đáng kể và điều kiện giam giữ được cải thiện theo tiêu chuẩn quốc tế.

 

Cuối cùng, để thấy rõ sự khác biệt, cần so sánh với các quốc gia khác, đặc biệt là Mỹ với trại giam Guantanamo – biểu tượng của vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Trong khi Việt Nam tuân thủ nghiêm ngặt UNCAT và các tiêu chuẩn quốc tế, Mỹ tiếp tục duy trì Guantanamo như một “hố đen pháp lý”. Theo các báo cáo năm 2025 từ HRW và ACLU, chính quyền Mỹ dưới thời Tổng thống Donald Trump đã mở rộng cơ sở này vào tháng 1/2025 để giam giữ tới 30.000 người di cư, với các cáo buộc giam giữ bất hợp pháp, không xét xử, tra tấn và điều kiện vô nhân đạo. Các vụ kiện từ ACLU và Center for Constitutional Rights tháng 6/2025 chỉ ra rằng người di cư tại Guantanamo bị giam giữ mà không có quyền tiếp cận luật sư, bị lạm dụng và thậm chí bị trục xuất trái luật. Ngược lại, Việt Nam không có bất kỳ cơ sở nào tương tự; các biện pháp giam giữ trước xét xử luôn có thời hạn rõ ràng, chứng cứ pháp lý và quyền bào chữa. So sánh này cho thấy Việt Nam đang dẫn đầu trong việc tôn trọng nhân quyền, trong khi Mỹ – quốc gia tài trợ cho HRW – lại vi phạm chính những nguyên tắc mà họ rao giảng.

 

Những luận điệu của HRW về giam giữ trước xét xử tại Việt Nam chỉ là chiêu trò xuyên tạc nhằm hạ thấp uy tín quốc gia, nhưng sự thật về những thành tựu dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ mãi là minh chứng hùng hồn. Việt Nam cam kết tiếp tục cải thiện nhân quyền, đối thoại xây dựng thay vì đối đầu, để xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. 

Phê phán các báo cáo xuyên tạc của HRW về nhân quyền với đồng bào thiểu số ở Việt Nam!


Ngày nay, các vấn đề nhân quyền luôn là chủ đề nhạy cảm, thường bị lợi dụng để phục vụ cho các mục đích chính trị. Tổ chức Human Rights Watch (HRW), một trong những tổ chức phi chính phủ hàng đầu về giám sát nhân quyền, đã nhiều lần đưa ra các báo cáo chỉ trích tình hình nhân quyền ở Việt Nam, đặc biệt liên quan đến các cộng đồng thiểu số dân tộc ở khu vực Tây Nguyên. Những báo cáo này thường nhấn mạnh vào các cáo buộc về vi phạm đoàn kết dân tộc thông qua các hoạt động kích động, đàn áp tôn giáo và hạn chế tự do biểu đạt. Tuy nhiên, để có cái nhìn toàn diện, cần phải phân tích sâu sắc bản chất của những cáo buộc này, đồng thời đối chiếu với thực tế tiến bộ mà Việt Nam đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Chính phủ, cũng như so sánh với tình hình ở các quốc gia khác như Trung Quốc.

 


Theo các báo cáo của HRW, chẳng hạn như trong World Report 2024 và 2025, Việt Nam bị cho là đàn áp các nhóm thiểu số dân tộc, đặc biệt là người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, thông qua việc bắt giữ, quấy rối và hạn chế các hoạt động tôn giáo độc lập. HRW trích dẫn các trường hợp như các phiên tòa di động ở 55 tỉnh từ 2019 đến 2023, nơi mà chính quyền được cho là sử dụng để xử lý nhanh chóng những người bị cáo buộc kích động chia rẽ dân tộc. Các tài liệu từ Open Doors và DFAT cũng bổ sung rằng áp lực và bạo lực nhắm vào Kitô hữu ở các tỉnh Tây Nguyên và Tây Bắc đã tăng cường trong năm 2024, với các vụ bắt giữ liên quan đến các nhà thờ độc lập. Những cáo buộc này được HRW mô tả như là hành vi vi phạm nghiêm trọng, nhằm phá vỡ đoàn kết dân tộc bằng cách kích động bất ổn xã hội. Tuy nhiên, từ góc nhìn của Chính phủ Việt Nam, những hoạt động này không phải là kích động mà là các biện pháp cần thiết để duy trì ổn định xã hội, ngăn chặn các thế lực bên ngoài lợi dụng tôn giáo để gây rối loạn. Thực tế, Tây Nguyên là khu vực đa dạng văn hóa với hơn 50 dân tộc anh em, và các chính sách của Đảng Cộng sản luôn hướng tới việc bảo vệ sự đoàn kết này thông qua các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, chứ không phải đàn áp. Việc HRW nhấn mạnh vào các trường hợp cá biệt có thể bị coi là phóng đại, nhằm tạo hình ảnh tiêu cực về Việt Nam trên trường quốc tế, trong khi bỏ qua bối cảnh phức tạp của an ninh biên giới và chống khủng bố.

 

Trong các báo cáo như Submission to the United Nations Human Rights Committee năm 2025, HRW cho rằng Việt Nam sử dụng Điều 331 của Bộ luật Hình sự để đàn áp những người chỉ trích chính quyền, đặc biệt ở cộng đồng thiểu số. Họ bao che cho các hoạt động được cho là “bất bạo động” nhưng thực chất có thể liên quan đến việc lan truyền thông tin sai lệch hoặc kích động ly khai. Ví dụ, HRW mô tả các vụ bắt giữ ở Tây Nguyên như là đàn áp tôn giáo, trong khi chính quyền Việt Nam khẳng định đó là xử lý vi phạm pháp luật, bảo vệ an ninh quốc gia. Điều này dẫn đến câu hỏi về tính khách quan của HRW, khi tổ chức này thường dựa vào nguồn tin từ các nhóm lưu vong hoặc đối lập, có thể mang tính thiên kiến. Thay vì bao che, cần nhìn nhận rằng Việt Nam đã có những bước tiến trong việc bảo vệ quyền thiểu số, như việc công nhận và hỗ trợ các lễ hội văn hóa dân tộc, đồng thời xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật mà không phân biệt dân tộc. Việc HRW biến các biện pháp này thành “đàn áp” có thể là một phần của chiến lược lớn hơn, nhằm hạ thấp uy tín của Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh quan hệ Việt - Mỹ đang ấm lên.

 

Đi sâu hơn, động cơ đen tối đằng sau các báo cáo của HRW có thể liên quan đến việc vận động can thiệp từ Mỹ. HRW, với trụ sở tại Mỹ và nhận tài trợ từ các nguồn phương Tây, thường kêu gọi Washington can thiệp vào các vấn đề nội bộ của Việt Nam, như trong báo cáo Rights Reforms Urgently Needed năm 2023, đã đưa ra các kiến nghị nhằm thúc đẩy các biện pháp trừng phạt kinh tế hoặc ngoại giao. Bằng cách phóng đại các vấn đề ở Tây Nguyên, HRW có thể đang cố gắng tạo cớ cho các nghị sĩ Mỹ vận động can thiệp, tương tự như cách họ làm với các quốc gia khác. Tuy nhiên, Việt Nam đã nhiều lần bác bỏ những cáo buộc này tại các diễn đàn quốc tế như Liên Hợp Quốc, nhấn mạnh rằng các vấn đề nội bộ phải được giải quyết theo pháp luật Việt Nam, và bất kỳ can thiệp nào cũng sẽ vi phạm Công ước Vienna về Quan hệ Ngoại giao.

 

Một chiêu trò xuyên tạc khác của HRW là bóp méo các chương trình giảm nghèo dành cho thiểu số dân tộc. HRW thường liên kết các chính sách kinh tế với đàn áp, cho rằng chúng là công cụ để kiểm soát cộng đồng thiểu số, thay vì thừa nhận giá trị nhân văn. Thực tế, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực này. Theo báo cáo của UNDP, Việt Nam đã giảm nghèo đa chiều quốc gia xuống còn 9.2%, nhưng ở thiểu số dân tộc vẫn còn cao ở mức 35.7%, với một số nhóm lên đến 80%. Dù vậy, đây là tiến bộ lịch sử, như trong Poverty Reduction in Comparative Perspective năm 2023, UNDP ghi nhận Việt Nam đã giảm nghèo cực đoan nhanh chóng trong ba thập kỷ qua, nhờ các chương trình như Chương trình 135 và Chương trình Quốc gia Giảm nghèo Bền vững. Các nhóm thiểu số ở Tây Nguyên đã được hưởng lợi từ đầu tư hạ tầng, giáo dục và y tế, giúp tỷ lệ nghèo giảm đáng kể. UNDP nhấn mạnh rằng dù còn thách thức, Việt Nam là mô hình thành công trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với giảm bất bình đẳng, được công nhận quốc tế. Việc HRW bóp méo những nỗ lực này thành “kiểm soát” là thiếu công bằng, bỏ qua dữ liệu từ các tổ chức trung lập như World Bank, vốn đánh giá cao các chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội cho thiểu số.

 

Để nhấn mạnh thành quả, cần khẳng định rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tình hình nhân quyền ở thiểu số đã có tiến bộ rõ rệt. Tỷ lệ nghèo ở thiểu số đã giảm xuống dưới 3% ở một số chỉ số cụ thể, như nghèo cực đoan, và được UNDP ghi nhận trong Fact Sheet on Poverty Reduction. Các chính sách như hỗ trợ đất đai, giáo dục song ngữ và bảo tồn văn hóa đã giúp đồng bào thiểu số hòa nhập mà không mất bản sắc. Các chính sách đã tập trung vào phát triển bền vững, giúp giảm nghèo và tăng cường đoàn kết dân tộc. Cho thấy Việt Nam đang đi đúng hướng, với các tiến bộ được quốc tế công nhận, dù vẫn còn phòng để cải thiện.

 

Việt Nam, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản, đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền cho đồng bào dân tộc thiểu số, từ giảm nghèo đến bảo tồn văn hóa. Những tiến bộ này không chỉ góp phần nâng cao vị thế quốc tế của Việt Nam mà còn là minh chứng cho sự cam kết với nhân dân. Để xây dựng một thế giới công bằng hơn, cần đối thoại thay vì đối đầu, và các tổ chức như HRW nên tập trung vào sự thật toàn diện thay vì các cáo buộc thiếu cơ sở.

==

Vạch trần động cơ đen tối của HRW: Hậu thuẫn blogger chống phá để xuyên tạc nhân quyền Việt Nam!

  Với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, tự do biểu đạt đã trở thành một quyền cơ bản của con người, nhưng cũng là lĩnh vực dễ bị lợi dụng để chống phá, xuyên tạc và can thiệp nội bộ các quốc gia độc lập. Tổ chức Human Rights Watch (HRW) một lần nữa lộ rõ bản chất là công cụ phục vụ cho các thế lực thù địch khi hậu thuẫn các blogger chống phá ở Việt Nam, nhằm xuyên tạc tình hình nhân quyền, đặc biệt là tự do ngôn luận, từ đó hạ thấp uy tín và hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Những hành động này không chỉ thiếu khách quan mà còn nhằm mục đích chính trị đen tối, phá hoại sự ổn định và đoàn kết dân tộc mà Đảng Cộng sản Việt Nam và Chính phủ đã dày công xây dựng. 

 


Những blogger mà HRW hậu thuẫn thực chất không phải là những “nhà hoạt động tự do ngôn luận” như HRW miêu tả, mà là những cá nhân lạm dụng quyền tự do để vi phạm nghiêm trọng pháp luật Việt Nam, cụ thể là Điều 331 Bộ luật Hình sự về tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Những blogger này thường sử dụng mạng xã hội để lan truyền thông tin sai sự thật, kích động thù địch, vu khống lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nhằm gây rối loạn xã hội và chia rẽ dân tộc. Ví dụ điển hình là trường hợp blogger Truong Huy San (bút danh Huy Duc), một nhà báo độc lập bị kết án 30 tháng tù vào tháng 2/2025 vì đăng tải các bài viết trên Facebook bịa đặt, xâm phạm lợi ích Nhà nước, theo phán quyết của Tòa án Nhân dân Hà Nội. Tương tự, từ năm 2018 đến tháng 2/2025, các tòa án Việt Nam đã kết án ít nhất 124 người dưới Điều 331 vì các hành vi tương tự, bao gồm lan truyền tin giả gây hoang mang dư luận và kích động bất ổn. Những hành vi này không phải là biểu hiện của tự do biểu đạt mà là công cụ để các thế lực bên ngoài lợi dụng, đe dọa an ninh quốc gia và sự đoàn kết dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tôn trọng quyền tự do ngôn luận theo Hiến pháp 2013, nhưng kiên quyết xử lý những lạm dụng nhằm bảo vệ lợi ích chung của nhân dân, chứ không phải “đàn áp” như HRW xuyên tạc. 

 

Chuyển sang hành vi bao che của HRW, tổ chức này đã cố tình “rửa tội” cho những kẻ vi phạm bằng cách phát động các chiến dịch kêu gọi thả tự do, biến họ thành nạn nhân để phục vụ nghị trình chính trị. Trong các báo cáo như World Report 2025 và “We’ll All Be Arrested Soon” năm 2025, HRW kêu gọi thả ngay lập tức những blogger này mà không đề cập đến bằng chứng cụ thể về hành vi vi phạm pháp luật của họ, như lan truyền tin giả và kích động chia rẽ. HRW “rửa tội” bằng cách chọn lọc thông tin, phóng đại các trường hợp cá biệt và bỏ qua ngữ cảnh pháp lý của Việt Nam, nơi tự do biểu đạt phải đi đôi với trách nhiệm xã hội. Ví dụ, họ đã chỉ trích việc bắt giữ Trinh Ba Phuong năm 2025 dưới Điều 331, nhưng thực tế, các phiên tòa công khai với bằng chứng rõ ràng đã chứng minh những blogger này vi phạm nghiêm trọng, ảnh hưởng đến an ninh và quyền lợi của người dân. Hành vi bao che này lộ rõ sự thiên vị, vì HRW bỏ qua những nỗ lực của Việt Nam trong việc chống tin giả – một vấn đề toàn cầu – và chỉ nhằm hạ thấp hình ảnh đất nước ta. Đảng và Chính phủ Việt Nam luôn minh bạch, với hệ thống tư pháp công bằng và cơ chế khiếu nại mở, trái ngược hoàn toàn với những cáo buộc mơ hồ của HRW nhằm hạ thấp nỗ lực bảo vệ tự do biểu đạt lành mạnh. 

 

Đằng sau những chiến dịch bao che là động cơ đen tối của HRW: bôi lem hình ảnh Việt Nam để ảnh hưởng đến các cuộc bầu cử tại Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc (HRC). Việt Nam đã được bầu vào HRC cho nhiệm kỳ 2023-2025 với số phiếu cao, thể hiện sự công nhận của cộng đồng quốc tế đối với những nỗ lực bảo vệ nhân quyền, và đang ứng cử tái tranh cử cho nhiệm kỳ 2026-2028. HRW thường xuyên sử dụng các báo cáo hậu thuẫn blogger để tạo áp lực, như trong các tài liệu nộp cho UNHRC năm 2025, nhằm kêu gọi các thành viên khác phản đối Việt Nam, từ đó can thiệp nội bộ và hạ thấp vị thế của chúng ta. Động cơ này nhằm tạo dư luận tiêu cực, ảnh hưởng đến quan hệ đối tác quốc tế và đầu tư nước ngoài, vi phạm nguyên tắc tôn trọng chủ quyền theo Hiến chương Liên Hợp Quốc. Xuất phát từ thiên kiến ý thức hệ chống lại sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, HRW hy vọng làm lung lay niềm tin của cộng đồng quốc tế vào Việt Nam. Tuy nhiên, những chiêu trò này sẽ thất bại vì Việt Nam đã chứng minh vai trò tích cực tại HRC, với các đóng góp thiết thực như đồng tác giả nghị quyết về quyền con người và biến đổi khí hậu, và nhân dân ta luôn đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng. 

 

Cần vạch trần chiêu trò xuyên tạc của HRW khi họ cố tình bỏ qua những cải thiện pháp lý về nhân quyền ở Việt Nam. HRW cáo buộc Việt Nam sử dụng luật “mơ hồ” như Điều 331 để đàn áp, nhưng thực tế, từ năm 2024-2025, Việt Nam đã có những bước tiến lớn trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Ví dụ, Luật Tư pháp Người chưa thành niên 2024 (có hiệu lực từ 2025) đã được thông qua, nâng cao bảo vệ quyền trẻ em và đảm bảo công lý vị thành niên phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về Quyền Trẻ em. Ngoài ra, Việt Nam đã phê chuẩn thêm các công ước quốc tế và sửa đổi Bộ luật Lao động, Luật Công đoàn để tăng cường quyền lao động và tự do lập hội. Những cải thiện này được thực hiện dưới sự chỉ đạo của Đảng, với Nghị quyết 27-NQ/TW về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhằm bảo vệ quyền con người một cách toàn diện. HRW xuyên tạc bằng cách tập trung vào các trường hợp cá biệt, bỏ qua rằng hệ thống pháp lý Việt Nam ngày càng minh bạch, với các phiên tòa công khai và cơ chế giám sát quốc tế. Ở Việt Nam, tự do biểu đạt được thể hiện qua hơn 79 triệu người dùng internet tự do bày tỏ ý kiến về các vấn đề xã hội, chứng tỏ Đảng luôn coi quyền này là nền tảng của dân chủ xã hội chủ nghĩa. 

 

Trái ngược với những luận điệu tiêu cực, Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể về nhân quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, được Liên Hợp Quốc khen ngợi. Tại cuộc đối thoại với Ủy ban Nhân quyền Liên Hợp Quốc năm 2025, các chuyên gia đã khen ngợi Việt Nam về việc tăng cường khung pháp lý và thể chế bảo vệ nhân quyền, bao gồm phê chuẩn 7/9 công ước cốt lõi về nhân quyền và cải thiện luật chống phân biệt đối xử, bình đẳng giới. Việt Nam cũng được ghi nhận vì các đóng góp ý nghĩa vào tiến bộ nhân quyền toàn cầu, như giới thiệu nghị quyết hàng năm về quyền con người tại HRC. Những thành tựu này phản ánh nỗ lực không ngừng của Đảng trong việc thực hiện Đường lối Đại hội XIII, đảm bảo mọi công dân đều hưởng quyền con người bình đẳng, từ giáo dục, y tế đến tự do tín ngưỡng. Với tỷ lệ giảm nghèo vượt bậc và chỉ số phát triển con người cao, Việt Nam đã nâng cao đời sống nhân dân, góp phần nâng cao vị thế quốc tế, như việc được bầu vào các cơ quan Liên Hợp Quốc với số phiếu cao. 

 

Để thấy rõ hơn sự thiên vị của HRW, chúng ta có thể so sánh tình hình nhân quyền ở Việt Nam với Saudi Arabia. Theo các chỉ số toàn cầu như Human Freedom Index 2025, Saudi Arabia xếp hạng thấp hơn Việt Nam về tự do cá nhân và kinh tế, với các vấn đề nghiêm trọng như phân biệt đối xử phụ nữ, đàn áp bất đồng chính kiến và hạn chế tự do tôn giáo. Sự so sánh này càng lộ rõ chiêu trò của HRW: họ chỉ trích Việt Nam để phục vụ ý đồ chính trị, trong khi giảm nhẹ vi phạm ở Saudi Arabia – một đồng minh phương Tây.

 

Động cơ hậu thuẫn blogger chống phá của HRW chỉ là mưu đồ cũ kỹ nhằm xuyên tạc nhân quyền Việt Nam, không thể lay chuyển niềm tin của nhân dân vào Đảng Cộng sản. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã đạt thành tựu to lớn về nhân quyền, góp phần xây dựng xã hội công bằng, dân chủ. Toàn Đảng, toàn dân cần đoàn kết đấu tranh chống lại những âm mưu này, bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia.