Thứ Tư, 5 tháng 4, 2023

Vì sao Việt Nam kêu gọi giải quyết các thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu?

 


Tại Khóa họp thường kỳ lần thứ 52 của Hội đồng Nhân quyền LHQ, trong các phát biểu tại nhiều phiên họp, phiên thảo luận, đoàn Việt Nam luôn kêu gọi các nước cần đoàn kết và tăng cường tham gia, đóng góp thiết thực nhằm giải quyết các thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, xem đây như nhân tố quyết định, nhân tố đảm bảo quyền con người trong bối cảnh hiện nay. Không chỉ có vậy, Việt Nam đã cùng hai nước Bangladesh và Philippines - Nhóm nòng cốt về biến đổi khí hậu và quyền con người, đã soạn thảo và đưa ra Phát biểu chung về biến đổi khí hậu và quyền con người tại khóa họp này, cũng thu hút đông đảo các nước tham gia đồng bảo trợ. Vì sao và dựa trên cơ sở nào mà Việt Nam nhấn mạnh thách thức này?



Biến đổi khí hậu đang diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh hơn, nghiêm trọng hơn, trở thành một trong những vấn đề cấp bách toàn cầu. Biến đổi khí hậu có ảnh hưởng to lớn đến toàn nhân loại, gia tăng mạnh mẽ cả về cường độ và mức độ với một số hiện tượng nổi bật:

Nhiệt độ toàn cầu gia tăng tới mức báo động: Thế kỷ XX ghi nhận mức nhiệt độ tăng cao nhất trong lịch sử quan trắc thế giới kể từ thế kỷ XV với mức tăng 0,75. Đặc biệt, kể từ năm 1970, nhiệt độ bề mặt Trái đất tăng nhanh hơn bất kỳ khoảng thời gian 50 năm nào khác trong vòng 2.000 năm. Theo báo cáo năm 2023 của Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO), trong giai đoạn 2023 - 2027, nhiệt độ trung bình năm toàn cầu có thể sẽ cao hơn 1,5°C so với mức thời kỳ tiền công nghiệp trong ít nhất một năm do sự kết hợp giữa ô nhiễm bẫy nhiệt và hiện tượng El Nino.

Mực nước biển dâng nhanh, vốn chỉ xuất hiện với chu kỳ 100 năm/lần, đã trở thành hiện tượng phổ biến từ đầu thế kỷ XXI: Tháng 9-2022, Cơ quan Hàng không và Vũ trụ Mỹ (NASA) cho biết, khối lượng băng suy giảm mạnh trên phạm vi toàn cầu, nhất là tại khu vực Bắc Cực với tốc độ băng tan vào mùa hè hiện nay ở mức 12,6%/thập niên. Theo dự báo của Liên hợp quốc tại Báo cáo các mục tiêu phát triển bền vững năm 2022(2), trong thế kỷ XXI, mực nước biển sẽ tăng thêm ít nhất từ 30 - 60cm vào cuối năm 2100 nếu lượng khí thải nhà kính giảm mạnh và sự nóng lên toàn cầu được giới hạn ở mức dưới 20C và lên tới 60 - 110cm nếu lượng khí thải nhà kính tiếp tục tăng như hiện nay.

Thảm họa thiên nhiên (bão, lũ, động đất, sóng thần, hạn hán...) diễn ra ngày càng nhiều với cường độ lớn: Trong 50 năm qua, số lượng thảm họa thiên nhiên đã tăng gấp 5 lần và gây thiệt hại gấp 7 lần. Các hiện tượng thiên tai khiến hàng triệu gia đình mất nhà cửa, phương tiện sản xuất; ảnh hưởng đến giáo dục, sức khỏe của hàng trăm triệu người. Tại báo cáo tháng 5-2023, WMO cho biết, trong giai đoạn 1970 - 2021, thế giới ghi nhận 11.778 thảm họa liên quan đến biến đổi khí hậu, khiến 2 triệu người chết và thiệt hại kinh tế khoảng 4,3 nghìn tỷ USD(3).

Trước những tác động to lớn tới mọi lĩnh vực và quốc gia, biến đổi khí hậu đã trở thành một trong những vấn đề cấp bách toàn cầu, là thách thức an ninh phi truyền thống lớn nhất và là một trong những thách thức nghiêm trọng nhất đối với toàn nhân loại trong thế kỷ XXI, đòi hỏi sự tham gia giải quyết của tất cả các quốc gia trên thế giới. 

Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất với biến đổi khí hậu. IPCC cho rằng, khi mực nước biển dâng lên 100cm, diện tích đất bị mất đi của Việt Nam sẽ lên tới 40.000km2, chiếm 12,1% tổng diện tích đất hiện có, kéo theo hệ quả khiến khoảng 17,1 triệu người sẽ mất đi nơi sinh sống. Biến đổi khí hậu là nhân tố chính gây ra bão, lũ, ngập lụt, lũ quét, sạt lở, chiếm 87 - 91% số lượng thiên tai, ảnh hưởng đến 70% dân số, gây thiệt hại khoảng 1 - 1,5% GDP, đe dọa nghiêm trọng tới việc thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo và các mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, trong giai đoạn 2011 - 2020, khí hậu cực đoan đã gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế với tổng thiệt hại lên tới khoảng 10 tỷ USD.

Trước tác động to lớn của biến đổi khí hậu, từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đặc biệt coi trọng vấn đề này, luôn nhất quán chủ trương chủ động, tích cực hợp tác quốc tế về biến đổi khí hậu.  Chính phủ đã kịp thời thể chế hóa, ban hành một số luật, văn bản quan trọng để thúc đẩy, ứng phó với biến đổi khí hậu và nhất quán đẩy mạnh thực hiện chủ trương từ “tham gia” thành “chủ động, tích cực tham gia” hợp tác quốc tế trong ứng phó, thích ứng với biến đổi khí hậu tại nhiều thể chế đa phương, quốc tế, khu vực. Không chỉ tham gia với tư cách quốc gia thành viên, mà Việt Nam còn chủ động đề xuất nhiều sáng kiến, cơ chế, phương thức hợp tác hiệu quả, góp phần quan trọng thu hút nguồn lực bên ngoài trong ứng phó với biến đổi khí hậu, nâng cao hình ảnh và vị thế đất nước, nhận được sự đánh giá cao của cộng đồng quốc tế. Trong hợp tác đa phương, Việt Nam đã: 1- Ký kết và sớm phê chuẩn nhiều thỏa thuận lớn về biến đổi khí hậu, như Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) năm 1992, Nghị định thư Ky-ô-tô năm 1998, Thỏa thuận Pa-ri năm 2016...; 2- Tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế lớn về biến đổi khí hậu, như Diễn đàn biến đổi khí hậu Á - Âu năm 2011 hay phiên Đối thoại cấp cao “Việt Nam chung tay cùng các đối tác quốc tế ứng phó với các thách thức của biến đổi khí hậu tại đồng bằng sông Cửu Long” năm 2015...; 3- Đóng góp tích cực thúc đẩy các sáng kiến trong khuôn khổ Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Hội nghị các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP). Tại các Hội nghị COP lần thứ 26 và 27, Việt Nam đã cam kết đưa mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Trong hợp tác song phương, Việt Nam chủ động, tích cực đẩy mạnh hợp tác, đối thoại với các quốc gia phát triển, nhận được nguồn vốn hỗ trợ lớn thông qua các tổ chức quốc tế, như Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Cơ quan Phát triển Pháp (AFD), Ngân hàng Thế giới (WB),... Báo cáo về đầu tư và chi tiêu công cho biến đổi khí hậu tại Việt Nam năm 2022 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Ủy ban Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) cho thấy, trong giai đoạn từ năm 2010 - 2019, Việt Nam đã nhận được khoảng 600 dự án quốc tế hỗ trợ ứng phó, thích ứng với biến đổi khí hậu có tổng số vốn ước tính đạt 18,5 tỷ USD. Trong đó, tổng số nguồn vốn viện trợ không hoàn lại đạt khoảng 1,1 tỷ USD, còn lại là vay ưu đãi. Tháng 12-2022, Việt Nam đã nhận được cam kết hỗ trợ 15,5 tỷ USD từ Anh, Mỹ, các nước EU hỗ trợ chuyển đổi năng lượng hóa thạch sang năng lượng tái tạo, giảm phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050(19

Như vậy, sáng kiến và vận động quốc tế quan tâm đến vấn đề biến đổi khi hậu được Nhà nước, Chính phủ quan tâm nên triển khai thực chất, hiệu quả. Việc Việt Nam nhấn mạnh và khởi xướng ban hành Tuyên bố, …không khác nào cú tạt mặt cho những thành phần xuyên tạc, chống phá

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét